Đánh Giá Kết Quả Học Tập Của Sinh Viên Đhsp Theo Tiếp Cận Năng Lực


Trong bối cảnh đổi mới GDPT Việt Nam hiện nay, Bộ GD&ĐT đã công bố chuẩn nghề nghiệp giáo viên gồm 5 tiêu chuẩn và 15 tiêu chí, trong đó thể hiện rõ các phẩm chất và NL sư phạm của giáo viên như tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; NL dạy học và GD theo hướng phát triển phẩm chất, NL học sinh; NL hoạt động chính trị, xã hội… [6].

Tiếp thu các nghiên cứu trên và trong phạm vi nghiên cứu của luận án, theo chúng tôi, các NL mà sinh viên ĐHSP cần được phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại và đổi mới GDPT hiện nay gồm các NL sau đây:

- Các NL chung: NL tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề; NL giao tiếp và hợp tác; NL tự học, tự rèn luyện.

- Các NL sư phạm: NL dạy học; NL giáo dục học sinh; NL phát triển nghề

nghiệp của bản thân.

- Các NL hỗ trợ khác: NL ứng dụng CNTT, năng lực ngoại ngữ, năng lực NCKH giáo dục,.

Như vậy các NL cần phát triển cho sinh viên ĐHSP rất đa dạng, bao gồm các NL chung nhằm giúp các em có thích ứng với xã hội hiện đại và các NL đặc thù của của người giáo viên, giúp cho SV có đủ những phẩm chất, NL cần thiết để trở thành người giáo viên giỏi trong tương lai, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới GD.

1.2.3.2. Tiếp cận năng lực

TCNL xuất hiện tại Hoa Kỳ trong những năm 1970, gắn với một phong trào GD với chủ trương xác định mục tiêu GD, được mô tả cụ thể để có thể đo lường được những kiến thức, kỹ năng và thái độ mà SV cần phải đạt được sau khi kết thúc chương trình học.

Theo Richards và Rodgers, “TCNL trong giáo dục tập trung vào KQHT, nhắm tới những gì người học dự kiến phải làm được hơn là nhằm tới những gì họ cần phải học được’’[113].

TCNL có thể được định nghĩa là một chiến lược giảng dạy, trong đó quá

trình học tập dựa trên NL thực hiện (performance-based learning).

Theo Văn phòng giáo dục Hoa Kỳ, “đào tạo người học dựa trên năng lực thực hiện dẫn họ đến việc làm chủ được những kỹ năng cơ bản và kỹ năng sống cần thiết của cá nhân và hòa nhập tốt vào hoạt động lao động ngoài xã hội”[133].

Đào tạo TCNL hay được gọi là GD&ĐT dựa trên NL là một cách tiếp cận để


giảng dạy và học tập được sử dụng thường xuyên trong việc học các kỹ năng cụ thể hơn việc học các vấn đề có tính trừu tượng. Mô hình này được hình thành và phát triển rộng khắp tại Mỹ và phát triển mạnh mẽ trong những năm 1990 ở hàng loạt các cơ sở GD và doanh nghiệp tại Mỹ, Anh, ÚC, New Zealand. Có rất nhiều nhà khoa học GD xem cách tiếp cận này là cách thức có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất để tạo ra sự phù hợp giữa GD&ĐT và nhu cầu về NL.

Tiếp cận năng lực trong đào tạo ở ĐH nói chung, ĐHSP nói riêng là xu thế tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực của xã hội hiện đại, trong đó ĐG là khâu trọng yếu. Bản chất của TCNL trong đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP là từ mục tiêu NL cần phát triển cho SV (các NL chung và các NL đặc thù của ngành sư phạm) để lựa chọn nội dung, vận dụng phối hợp các phương pháp, kỹ thuật, hình thức ĐG, công cụ ĐG khác nhau để đạt được mục tiêu NL.

1.2.4. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên ĐHSP theo tiếp cận năng lực

Đánh giá KQHT theo TCNL là một hoạt động nhằm mục tiêu ĐG sự tiến bộ và phát triển của người học trong các giai đoạn học tập. Trong những năm gần đây, hoạt động đánh giá KQHT theo TCNL được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới, dựa trên nền tảng của triết lý về ĐG là: đánh giá vì hoạt động học tập (Assessment for learning).

Tác giả Nguyễn Công Khanh [37] cho rằng có nhiều cách tiếp cận đánh giá KQHT như ĐG định tính (qualitive assessment); ĐG dựa trên kết quả thực hiện (performance-based assessment); ĐG theo chuẩn (standard - based assessment); ĐG theo NL (competence - based assessment); ĐG theo sản phẩm đầu ra (outcome

- based assessment).

Đánh giá KQHT theo TCNL là ĐG theo chuẩn về sản phẩm đầu ra nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó.

Đặc trưng của ĐG theo TCNL là sử dụng nhiều phương pháp khác nhau tập trung ĐG năng lực hành động, vận dụng thực tiễn, NL tự học, NL giải quyết vấn đề, NL tư duy sáng tạo, NL giao tiếp, NL phát triển bản thân của sinh viên…

Đánh giá theo TCNL dựa trên sự miêu tả các sản phẩm đầu ra cụ thể, rõ ràng tới mức GV, sinh viên và các bên liên quan đều có thể hình dung tương đối khách quan và chính xác về thành quả của SV sau quá trình học tập. Đánh giá cũng cho phép nhìn ra tiến bộ của SV dựa trên mức độ thực hiện các sản phẩm.


Còn theo tác giả Nguyễn Thành Ngọc Bảo, đánh giá KQHT theo NL “chính là ĐG khả năng vận dụng, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, thực tế và phát triển tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, ĐG) của SV chứ không dừng lại ở mức độ ĐG phân hóa riêng rẽ các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ” [2; tr.159]. Đánh giá KQHT theo NL không chỉ là ĐG việc thực hiện nhiệm vụ học tập của SV mà phải hướng tới việc ĐG khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ của SV để thực hiện nhiệm vụ học tập theo một chuẩn nhất định. Do vậy, đánh giá KQHT theo NL chủ yếu là ĐG dựa trên hoạt động thực hiện và áp dụng kiến thức vào thực tế của sinh viên.

Như vậy, đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL là quá trình thu thập, xử lý thông tin một cách chính xác, khách quan, toàn diện về mức độ đạt được của SV về hệ thống NL (bao gồm NL chung và NL sư phạm) so với CĐR, tạo cơ sở cho những quyết định SP của GV và nhà trường, cho bản thân SV để có thể phát triển NL ở mức độ cao hơn.

Đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL đòi hỏi kết hợp sử dụng nhiều phương pháp, kỹ thuật, hình thức ĐG đa dạng với các thời điểm, ngữ cảnh ĐG khác nhau. Kết quả học tập của SV được ĐG bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua ĐG thường xuyên, định kì, kết hợp tự ĐG của SV.

Đánh giá KQHT của SV đại học theo TCNL nói chung, đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP nói riêng theo TCNL chú trọng đến việc phát triển NL thực hiện của SV, tạo điều kiện cho SV vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn, gắn học đi đôi với hành. Tuy nhiên, đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP gắn với đặc thù NL sư phạm của người giáo viên, phát triển ở SV những phẩm chất và năng lực SP để họ nhanh chóng thích ứng với thực tiễn GDPT, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD hiện nay.

1.2.5. Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư

phạm theo tiếp cận năng lực

1.2.5.1. Quản lý

Quản lý là một hoạt động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động trong một tổ chức nhất định. Chính sự phân công, hợp tác này đòi hỏi phải có người đứng đầu, chỉ huy. Nói cách khác, phải có sự QL.

Hiện nay, QL theo khoa học trở thành một yêu cầu đặt ra đối với mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội. Đây là một hoạt động giữ vai trò hết sức quan trọng


nhưng cũng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp vì nó liên quan trực tiếp đến con người, đến tổ chức.

Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đối tượng quản lý phong phú, đa dạng nên tùy thuộc vào từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những cách hiểu khác nhau về quản lý.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “QL là chức năng và hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó ”[68].

Theo Từ điển tiếng Việt, “QL là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” [69].

Theo R.W, Tyler, “QL là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và

sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [124].

Các tác giả người Mỹ như Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich cho rằng: “QL bao hàm việc thiết kế một môi trường mà trong đó con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm để thực hiện các mục tiêu của tổ chức” [95].

Có tác giả lại hiểu QL là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.

Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “QL là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của mình” [9].

Các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo quan niệm: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [21].

Quản lý vừa là một khoa học, dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển (quy luật tự nhiên hay xã hội) của các đối tượng khác nhau, vừa là một nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự tác động thích hợp với từng khách thể quản lý.

Quản lý còn có thể được mô tả như là một chương trình của các hoạt động mà người QL thực hiện để đảm bảo những mục tiêu đề ra.


Còn dưới góc độ chức năng, người QL phải thực hiện các chức năng cơ bản:

Lập kế hoạch; Tổ chức; Lãnh đạo/Điều phối (chỉ đạo); Kiểm tra.

Qua các cách tiếp cận nêu trên có thể thấy, QL là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.

Từ đó, khái niệm QL chúng tôi sử dụng trong luận án được hiểu là quá trình lập kế hoạch,tổ chức,chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.

1.2.5.2. Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực

Quản lý hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL là một trong những nội dung QL quan trọng ở trường ĐH nói chung ĐHSP nói riêng. Việc QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL tập trung nhiều vào đầu ra của SV, vào sự tiến bộ của SV trong quá trình học tập. Để QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL có hiệu quả đòi hỏi phải lập kế hoạch một cách chi tiết, từ xây dựng mục tiêu ĐG, lựa chọn nội dung ĐG, sử dụng phương pháp và hình thức ĐG… Đồng thời phải tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, thiết lập các điều kiện đảm bảo cho QL hoạt động đánh giá KQHT của SV theo TCNL.

Từ đó, theo chúng tôi, quản lý hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và giám sát, hoạt động đánh giá KQHT của SV để đảm bảo cho hoạt động này xác định được sự phát triển về NL, sự tiến bộ của SV ở từng giai đoạn học tập, đáp ứng mục tiêu đào tạo.

1.3. Một số vấn đề về đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư

phạm theo tiếp cận năng lực

1.3.1. Đặc trưng của đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư

phạm theo tiếp cận năng lực

Trong trường ĐHSP hiện nay, việc đánh giá KQHT của SV theo TCNL cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá theo NL là ĐG kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa. Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa ĐG theo TCNL và ĐG tiếp cận nội dung, ĐG theo TCNL được coi là bước phát triển cao hơn so với ĐG tiếp cận nội dung. Một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa ĐG theo TCNL và ĐG theo tiếp cận nội dung của SV trường ĐHSP như sau:


Bảng 1.1. Bảng so sánh về đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL và đánh giá KQHT theo tiếp cận nội dung

Tiêu chí

so sánh

Đánh giá theo tiếp cận

nội dung

Đánh giá theo tiếp cận

năng lực

Mục tiêu

đánh giá

Xác định mức độ SV đạt các

kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu CTĐT; nhấn mạnh sự cạnh tranh

Xác định mức độ phát triển NL của SV theo CĐR; nhấn mạnh sự

hợp tác, tương tác


Nội dung đánh giá

Tập trung đánh giá kiến thức, kĩ năng đã xác định trong từng môn học; SV đạt hay không đạt nội dung đã được học

Tập trung ĐG khả năng làm chủ kiến thức, kĩ năng và vận dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn nghề nghiệp và cuộc sống, chú trọng vào NL thực tế và sáng tạo. Quy chuẩn theo các mức độ phát

triển NL của SV.

Phương pháp ĐG

Sử dụng các phương pháp đánh

giá truyền thống

Chú trọng sử dụng các phương

pháp có nhiều khả năng ĐG năng

lực

Hình thức đánh giá

Hình thức đánh giá chủ yếu qua các bài kiểm tra trên giấy, vấn đáp…

Hình thức ĐG đa dạng (giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm, trình bày, thuyết trình…)

trong suốt quá trình học tập


Chủ thể ĐG

ĐG được thực hiện bởi các cấp QL và do GV là chủ yếu, còn tự ĐG của SV không hoặc ít được công nhận. Người dạy được toàn

quyền trong đánh giá

GV và SV chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của SV

Công cụ

đánh giá

Các câu hỏi, bài tập với tình

huống giả định.

Các nhiệm vụ, dự án, đồ án, bài

tập với tình huống thực.


Thời điểm đánh giá, ngữ cảnh đánh giá

ĐG được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì, cuối kì. Tập trung vào ĐG tổng kết. ĐG gắn với nội dung học tập (những kiến thức, kỹ năng, thái độ)

ĐG được thực hiện trong suốt quá trình học, ĐG trong khi học: tính chuyên cần, thái độ học, hồ sơ học tập, giữa kì và kết thúc môn học. ĐG gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn hoạt động nghề

nghiệp của SV.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.

Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực - 6


Như vậy, có thể thấy đặc trưng của đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP theo TCNL là hướng đến việc giúp SV vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn GD theo tinh thần kết nối tri thức với cuộc sống trong bối cảnh cụ thể, với mục tiêu giúp SV phát triển các NL chung và NL đặc thù. Đồng thời góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất cá nhân và phẩm chất nhà giáo. So với ĐG theo tiếp cận nội dung, ĐG theo TCNL có nhiều điểm khác biệt về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, chủ thể, công cụ, thời điểm ĐG. Những điểm khác biệt này cần được quan tâm khi tổ chức đánh giá KQHT của SV theo TCNL.

1.3.2. Mục tiêu, ý nghĩa, chức năng của đánh giá kết quả học tập của sinh

viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực

1.3.2.1. Mục tiêu của hoạt động đánh giá kết quả học tập của sinh viên ĐHSP theo tiếp cận năng lực

Mục tiêu của hoạt động ĐG kết quả của sinh viên ĐHSP theo TCNL là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng CĐR của CTĐT và sự tiến bộ của SV để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, QL và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của SV và nâng cao chất lượng đào tạo.

Với nghĩa này, ĐG sẽ định hướng cách dạy của thầy và cách học của trò sao cho hiệu quả nhất, nghĩa là cùng hướng tới việc đạt mục tiêu. Như vậy, ĐG có thể coi là một động lực thức đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy trong mỗi trường ĐH nói chung, ĐHSP nói riêng. Các thông tin khai thác được từ kết quả ĐG sẽ rất hữu ích cho việc điều chỉnh phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò. Nếu xem chất lượng của quá trình đào tạo là sự phù hợp với mục tiêu thì ĐG là cách tốt nhất để khẳng định chất lượng của quá trình đào tạo.

1.3.2.2. Ý nghĩa của đánh giá kết quả học tập của sinh viên đại học sư phạm

theo tiếp cận năng lực

Đánh giá là khâu hết sức quan trọng của quá trình đào tạo ở trường ĐH nói chung, trường ĐHSP nói riêng. Hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên ĐHSP có ý nghĩa rất lớn đối với SV, giảng viên, nhà trường SP và với các nhà tuyển dụng, với gia đình.

- Đối với sinh viên: Giúp SV nhận thấy NL của bản thân, tự đánh giá sự tiến

bộ của bản thân và điều chỉnh phương pháp học tập phù hợp Cụ thể:

+ Về mặt giáo dưỡng: ĐG giúp SV thấy được mức độ lĩnh hội tri thức, kĩ


năng, kĩ xảo của mình, những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập.

+ Về việc phát triển NL nhận thức: Thông qua kiểm tra, đánh giá SV có điều kiện để tiến hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, hệ thống hoá, khái quát hoá tri thức; phát triển NL tư duy, NL vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống khác nhau.

+ Về mặt giáo dục: Việc kiểm tra, đánh giá, nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ hình thành cho SV động cơ học tập đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý chí vươn lên, củng cố niềm tin vào bản thân, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan trong học tập.

- Đối với giảng viên: Việc đánh giá KQHT của SV cung cấp cho GV những thông tin “liên hệ ngược ngoài” từ phía SV, từ đó tham mưu, tư vấn cho SV và đó cũng là cơ sở để điều chỉnh hoạt động/phương pháp giảng dạy giúp SV hình thành hệ thống NL đáp ứng CĐR của môn học. ĐG giúp mỗi GV tự nâng cao trình độ chuyên môn, NL sư phạm của mình để đáp ứng yêu cầu về chất lượng đào tạo.

- Đối với trường ĐHSP: Đó là căn cứ để nhà trường có phương hướng điều chỉnh kịp thời chất lượng và hoạt động giảng dạy đạt hiệu quả cao đáp ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT hiện nay. Xét trên tầm vĩ mô, kiểm tra, ĐG trong GD là một biện pháp quan trọng nhằm đổi mới GD. Nghị quyết số 29- NQ/TW yêu cầu: “Đổi mới căn bản, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan”[1]. Trong bối cảnh của Việt Nam, đổi mới kiểm tra, ĐG có tác động trực tiếp hết sức mạnh mẽ đến việc dạy và học, có thể làm thay đổi cả nhận thức, thói quen của thầy, trò, gia đình và xã hội. Vì vậy, việc chuyển từ thực trạng chú trọng ĐG bằng điểm số kết quả tiếp thu kiến thức sang ĐG toàn diện phẩm chất và NL của SV sẽ có tác động đến tất cả các yếu tố khác của quá trình đào tạo ở trường ĐHSP (mục tiêu, chương trình, phương thức đào tạo).

- Đối với gia đình: Nhận biết được NL, sự phát triển của con em mình và có

định hướng, tư vấn học tập cho SV cùng với nhà trường.

- Đối với các nhà tuyển dụng của các cơ sở GD: Dựa trên kết quả đánh giá, nhà tuyển dụng sẽ nhận thấy được hệ thống NL của SV đã được hình thành như thế nào, từ đó có sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp đối với các ứng cử viên với vị trí tuyển dụng, đáp ứng tiêu chuẩn tuyển dụng.

Xem tất cả 236 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí