mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và các trường mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi; phương pháp phân tích sản phẩm; phương pháp phỏng vấn nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên mầm non và quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non huyên Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời để khảo nghiệm tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
+ Mục đích: Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu khảo sát thực trạng phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp và quản lý phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp GVMN ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Tp.HCM. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng để khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của hệ thống biện pháp quản lý được phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp GVMN xây dựng.
+ Nội dung:
- Thực trạng phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
- Thực trạng quản lý phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
- Tính cần thiết và khả thi của hệ thống biện pháp quản lý phát triển đội ngũ GVMN đáp ứng chuẩn nghề nghiệp GVMN.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí phát triển đội ngũ giáo viên mầm non huyện Bình Chánh, thành phố hồ chí minh đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp - 1
- Quản lí phát triển đội ngũ giáo viên mầm non huyện Bình Chánh, thành phố hồ chí minh đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp - 2
- Phát Triển Đội Ngũ Giáo Viên Mầm Non Đáp Ứng Chuẩn Nghề Nghiệp
- Quản Lý Phát Triển Đội Ngũ Giáo Viên Mầm Non Theo Chuẩn Nghề
- Những Yêu Cầu Cơ Bản Đối Với Việc Phát Triển Giáo Viên, Đội Ngũ Giáo Viên Mầm Non Đáp Ứng Yêu Cầu Chuẩn Nghề Nghiệp
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
+ Công cụ: Xây dựng bộ công cụ khảo sát là các phiếu hỏi cho hai nhóm đối tượng:
Cán bộ quản lý Phòng GD-ĐT, trường Mầm non và đội ngũ GVMN đang công tác tại các trường mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhằm thu thập thông tin về thực trạng và tìm hiểu sâu hơn về thông tin thu thập được từ đối tượng khảo sát để minh chứng, bổ sung vào kết quả nghiên cứu thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống
biện pháp quản lý phát triển ĐNGVMN theo chuẩn nghề nghiệp tại các trường mầm non trên địa bài huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
Phỏng vấn được thực hiện với một số CBQL Phòng GD-ĐT, trường Mầm non và đội ngũ GVMN đang công tác tại các trường mầm non trên địa bài huyện Bình Chánh, Tp.HCM.
Công cụ: phiếu phỏng vấn CBQL, phiếu phỏng vấn GVMN.
7.2.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu các văn bản, báo cáo tổng kết liên quan đến công tác phát triển đội ngũ giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp của hiệu trưởng tại 7 trường mầm non huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh: Trường Mầm non Hoa Anh Đào, Trường Mầm non Hoa Mai, Trường Mầm non Thủy Tiên 2, Trường Mầm non Hoàng Anh, Trường Mầm non Ngọc Lan, Trường Mầm non Hướng Dương, Trường Mầm non Hoa Hồng 2.
7.2.3. Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp toán thống kê và phần mềm SPSS để xử lý các kết quả điều tra, khảo sát.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài xác lập cơ sở lý luận về quản lý phát triển đội ngũ giáo viên tại các trường mầm non.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề xuất các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu chuẩn giáo viên mầm non, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các trường mầm non huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Giúp cho cơ quan quản lý giáo dục có thêm cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được cấu trúc gồm:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Phần nội dung, gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các trường mầm non huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
Chương 3: Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các trường mầm non huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp.
C. Phần kết luận và khuyến nghị Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Hầu hết các Quốc gia trên Thế giới đều coi hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục. Chất lượng ĐNGV luôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể và cả quốc gia. Chất lượng ĐNGV sẽ có tính quyết định tới nâng cao chất lượng giáo dục của quốc gia, vấn đề phát triển đội ngũ là then chốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Theo Bernd Meier: “Người giáo viên cần phải có các năng lực nòng cốt như: năng lực dạy học; năng lực giáo dục; năng lực chẩn đoán; năng lực đánh giá; năng lực tư vấn; năng lực tiếp tục phát triển nghề nghiệp...” (Trần Kiểm, 2008).
Trên thế giới, các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Singapore… luôn xem giáo viên là điều kiện tiên quyết của sự nghiệp giáo dục và phát triển giáo dục. Và các nước cũng đã xây dựng các chuẩn nghề nghiệp giáo viên mang những nét đặc trưng riêng nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục của từng quốc gia.
Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong trong xây dựng chuẩn. Ủy ban quốc gia chuẩn nghề dạy học được thành lập năm 1987, đã đề xuất 5 điểm cốt lõi để các bang vận dụng: Giáo viên phải tận tâm với học sinh và việc học; Giáo viên phải làm chủ môn học, biết cách dạy môn học của mình và liên hệ với các môn học khác; Giáo viên phải có trách nhiệm với giảng dạy, quản lý, kiểm tra, đánh giá việc học của học sinh; Giáo viên phải thường xuyên suy nghĩ sáng tạo, phát triển kinh nghiệm nghề nghiệp; Giáo viên phải là thành viên đáng tin cậy của cộng đồng học tập, biết cộng tác với đồng nghiệp, hợp tác với cha mẹ học sinh. Dựa vào 5 đề xuất cốt lõi đó, mỗi bang của Hoa Kỳ xây dựng chuẩn nghề nghiệp cho giáo viên ở bang mình (Võ Thanh Liêm, 2016).
Úc xây dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên chia theo bốn giai đoạn, được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động chức năng, từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp của giáo viên từ khi mới vào nghề (Graduate); thành thạo nghề (Proficient); có uy
tín trong nghề (Highly Accomplished); dẫn dắt và lãnh đạo chuyên môn (Lead). Cấu trúc Bộ chuẩn này đánh giá trên 3 mặt: kiến thức chuyên môn; thực hành nghề nghiệp và sự tham gia nghề nghiệp; gồm 7 tiêu chuẩn, 37 tiêu chí, 148 chỉ báo (dấu hiệu mô tả) bao phủ toàn bộ các khía cạnh công việc của giáo viên trong nhà trường trong các giai đoạn phát triển nghề nghiệp cá nhân (Hiếu Nguyễn, 2018).
Anh xây dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên có 3 lĩnh vực liên quan đến nhau đó là: Đặc trưng nghề nghiệp; Kiến thức và sự am hiểu nghề; Kỹ năng nghề nghiệp, mỗi lĩnh vực có các tiêu chuẩn. Chuẩn nghề nghiệp (CNN) giáo viên được xác định cụ thể cho từng giai đoạn phát triển nghề của giáo viên: 33 tiêu chuẩn của giáo viên mới vào nghề, 44 tiêu chuẩn chung cho mọi giáo viên thực thụ, cộng thêm 15 tiêu chuẩn cho giáo viên giỏi và 3 tiêu chuẩn cho giáo viên cấp quốc gia (Võ Thanh Liêm, 2016).
Tại Singapore mọi hoạt động đào tạo và phát triển giáo viên hiện nay đều hướng tới chiến lược “Đào tạo giáo viên cho thế kỉ 21” . Điểm nổi bật và cũng là kinh nghiệm quý cho nhiều nước trong bồi dưỡng và phát triển năng lực nghề cho giáo viên của Singapore là hoạt động bồi dưỡng của giáo viên xuất phát từ nhu cầu nâng cao tay nghề, phát triển nghề nghiệp của giáo viên và gắn với hoạt động thực tiễn của giáo viên. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại Singapore được thực hiện theo nhiều hình thức phong phú: Tăng cường hợp tác, tham gia các hội thảo và các khóa học; giới thiệu những người có khả năng làm việc tốt; nghỉ phép để học tập nâng cao trình độ; nghiên cứu và công bố các công trình; học tập hợp tác; nghiên cứu và quan sát, tìm tòi; chia sẻ thực tiễn kinh nghiệm; trở thành thành viên của các ban, các tổ chức, các nhóm công việc liên quan đến giáo dục (Hải Bình, 2018).
Tại Liên Xô (cũ), các nhà nghiên cứu QLGD như M.I.Konđacop, A.V. Xukhomlinxki, … đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải có ĐNGV có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng, kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác quản lý ĐNGV (M.I. Konđacop, 1990), (V.A. Xukhomlinxki, 1983).
Tại Đài Loan năm 2007 giáo sư Wu Jing Ji, Huang Nai Ying của Hội học thuật giáo dục sư phạm Đài Loan – Trường Đại học Sư phạm Đài Loan chủ trì nghiên cứu tiêu chuẩn nghề dạy học. Sau hai năm nghiên cứu, chuẩn đã được thừa nhận và ban bố chính thức, trở thành văn kiện có tính chất chỉ đạo cho công tác đào tạo GV Đài Loan. Đến năm 2016, Bộ Giáo dục Đài Loan đã công bố chỉ dẫn tiêu chuẩn nghề nghiệp GV. Đây là công bố lần thứ hai sau bản 2007 về tiêu chuẩn nghề dạy học. Bộ Giáo dục Đài Loan hi vọng thông qua chế định về tiêu chuẩn để lập kế hoạch xây dựng kết cấu chương trình đào tạo GV, đánh giá thực tập của sinh viên sư phạm, tuyển dụng GV và đánh giá phát triển nghề nghiệp nhằm nâng cao trình độ của GV. Bản “Chỉ dẫn tiêu chuẩn nghề giáo viên” năm 2016 là bản đầy đủ và thông dụng nhất, tổng cộng 10 tiêu chuẩn và 29 tiêu chí. Bản này đã thể hiện được yêu cầu chung về phát triển nghề giáo viên tiểu học và trung học. Về phương diện nội dung, bản năm 2016 đã nhấn mạnh và làm nổi bật chỉ tiêu năng lực GV, về phương diện đạo đức nghề GV, nội dung đề cập ngắn gọn và nhấn mạnh tính thao tác của GV (Bùi Minh Đức, 2018).
Hội nghị Quốc tế về giáo dục lần thứ 45 họp tại Giơnevơ ngày 30/9/1996 bàn về giáo dục cho Thế kỉ 21 đã nhấn mạnh: Muốn có một nền giáo dục tốt, cần phải có những giáo viên tốt (Vũ Xuân Hùng, 2012).
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên, gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu, có thể nhắc đến:
Phạm Thị Thảo Hương (2003) với đề tài “Các biện pháp quản lý chương trình bồi dưỡng giáo viên mầm non nhằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm non Hà Nội trong thời kỳ đổi mới”. Qua đây tác giả đã tìm hiểu thực trạng dựa trên cơ sở lý luận của đề tài. Từ đó, đưa ra các biện pháp quản lý chương trình bồi dưỡng giáo viên mầm non nh;u nụằm nâng cao chất lượng giáo dục mầm non Hà Nội trong thời kỳ đổi mới.
Vương Thị Đào (2008) với đề tài “Giải pháp quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non Thành phố Hải Phòng trong giai đoạn từ nay đến 2015”. Trong đề tài này tác giả cũng đã có những khảo sát thực tế ý nghĩa, thiết thực trên cơ sở lý luận
đã xây dựng, từ đó tìm ra giải pháp khắc phục mang tính cần thiết cao. Ngoài ra, trong thời gian qua cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, hội thảo về giáo dục nói chung và xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên các cấp học từ mầm non đến đại học diễn ra trên một số tỉnh, Thành phố trong cả nước, điều đó đã nói lên có rất nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến vấn đề này.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước rất quan tâm.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã chỉ ra rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành, các cấp, Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta những bước phát triển mới. Cán bộ và giáo viên phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm được nhiệm vụ, chớ tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại” (Hồ Chí Minh, 1990).
Để đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) và hội nhập quốc tế thì công tác bồi dưỡng nhân lực của ngành giáo dục nói chung và đội ngũ GVMN nói riêng có vai trò quan trọng, mang tính đột phá trong việc thực hiện “Đổi mới căn bản, toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo” theo tinh thần Nghị quyết số 29/NQ
- TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa XI.
Trong Nghị quyết số 10/NQ - CP ngày 24/04/2012 của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế đến năm 2020 theo lộ trình phù hợp, trong đó đổi mới quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.
Luật Giáo dục (2005) cũng nêu rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học. Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của
cán bộ quản lí giáo dục, bảo đảm phát triển sự nghiệp giáo dục”. Điều này càng đúng đối với đội ngũ GVMN khi đối tượng của đội ngũ giáo dục này là những trẻ em mới bước đầu nhận được sự giáo dục từ nhà trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục” (Đức Vượng, 2000).
Trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục của đất nước, vấn đề quản lí giáo dục nói chung và phát triển ĐNGV nói riêng luôn thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu khoa học.
Trong quyển “Quản lí giáo dục” của các tác giả Bùi Minh Hiền - Vũ Ngọc Hải - Đặng Quốc Bảo đã quan tâm đến ba vấn đề: Số lượng, chất lượng, cơ cấu của ĐNGV trong một nhà trường. Đó là điều kiện cần cho sự phát triển và cần chú ý đến tính đồng thuận của ĐNGV mới để tạo điều kiện đủ cho sự phát triển bền vững của đội ngũ trên cơ sở phân tích các chức năng quản lí trong phát triển ĐNGV từ việc lập kế hoạch, tổ chức - chỉ đạo và kiểm tra phải đảm bảo các vấn đề về số lượng, chất lượng và cơ cấu (Bùi Minh Hiền, 2006). Đây là vấn đề cần được nghiên cứu trong thực tiễn quản lí ĐNGV hiện nay trước những yêu cầu đổi mới của các cấp học trong đó có GDMN.
Đồng quan điểm trên, tác giả Trần Kiểm - Nguyễn Xuân Thức nhận định: “Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển người - nhân tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đang được chính phủ các nước dành sự quan tâm đặc biệt. Trong bối cảnh đó, vai trò của nhà trường ngày càng trở nên quan trọng. Nhưng nhân tố làm nên bộ mặt nhà trường lại chính là giáo viên, những người được xã hội giao phó trọng trách đào tạo thế hệ trẻ, người chủ tương lai của xã hội” (Trần Kiểm, Nguyễn Xuân Thức, 2012).
Tác giả Bùi Văn Quân và Nguyễn Ngọc Cầu đã đề cập đến ba cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển ĐNGV hiện nay: “(1) Tiếp cận quản lí và phát triển nguồn nhân lực theo sơ đồ của Christan Batal (2) Tiếp cận theo phương pháp quản lí, gồm: phương pháp giáo dục, vận động, tuyên truyền; phương pháp hành chính, kinh tế (3) Tiếp cận theo nội dung phát triển ĐNGV” (Bùi Văn Quân, 2006).