Frederick Winslow Taylor (1856 - 1915), người sáng lập thuyết quản lý theo khoa học cho rằng: Làm quản lý phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm. Để quyết định xem một việc được thực hiện như thế nào cần sử dụng những biện pháp khoa học chứ không đơn thuần chỉ dựa vào kinh nghiệm sẵn có của cá nhân. Ông đưa ra bốn nguyên tắc: 1. Nghiên cứu khoa học mỗi yếu tố của công việc và xác định phương pháp tốt nhất để hoàn thành; 2. Tuyển chọn công nhân một cách cẩn trọng và huấn luyện họ hoàn thành nhiệm vụ. 3. Người quản lý hợp tác đầy đủ và toàn diện với công nhân. 4. Người quản lý phân chia công việc và trách nhiệm sao cho người quản lý phải lập kế hoạch cho các phương pháp công tác người công nhân có bổn phận thực thi công tác. Như vậy, quản lý là hoạt động mang đậm tính khoa học, tạo ra sự hợp tác, lập kế hoạch, hướng dẫn, tổ chức, huấn luyện con người trong tổ chức nhằm đạt kết quả công việc cao nhất (dẫn theo [16]).
Henry Fayol (1841-1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính, thì quan tâm đến cấu trúc tổ chức. Ông đưa ra năm chức năng của quản lý là: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra. Ông cho rằng, khi con người lao động hợp tác thì điều tối quan trọng là họ cần phải xác định rõ công việc mà mình phải hoàn thành và nhận thức được những nhiệm vụ của mỗi cá nhân phải là mắt lưới dệt nên mục tiêu tổ chức. Quản lý tổ chức có trách nhiệm phải làm được việc đó (dẫn theo [16]).
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: Hoạt động quản lý là hoạt động bao gồm hai quá trình "quản" và "lý" tích hợp vào nhau; trong đó, "quản" có nghĩa là duy trì và ổn định hệ, "lý" có nghĩa là đổi mới hệ. Tác giả khẳng định: Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý... phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động để người thủ trưởng phối hợp nỗ lực với các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra [1].
Theo Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) tới
đối tượng quản lý - trong tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Cũng theo đó các tác giả còn phân định rõ hơn về hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [4]. Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình quản lí. Trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có quan hệ biện chứng với nhau. Cụ thể:
Chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng hạt nhân, quan trọng nhất trong quá trình quản lý. Lập kế hoạch tức là phải đặt ra mục tiêu, bước đi và các biện pháp cụ thể để đạt tới mục tiêu. Muốn có bản kế hoạch phù hợp, khoa học và mang tính khả thi thì phải thực hiện tốt chức năng dự báo; khi dự báo phải biết rõ thực lực của mình.
Chức năng tổ chức: Đây là chức năng quan trọng, đảm bảo tạo nên sức mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch.
Chức năng chỉ đạo: Chức năng này có tính chất tác nghiệp, điều chỉnh, điều hành hoạt động của hệ thống nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định, biến mục tiêu trong dự kiến thành hiện thực.
Chức năng kiểm tra: Là thu thập những thông tin ngược từ phía bộ máy. Tức là nắm tình hình từ dưới lên để biết được thực trạng bộ máy, thực trạng các quyết định quản lý để kịp thời có điều chỉnh, sửa chữa...
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu một cách khái quát thì: Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đã đề ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho giáo viên ở các trường mầm non thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai - 1
- Quản lí bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho giáo viên ở các trường mầm non thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai - 2
- Một Số Khái Niệm Cơ Bản Liên Quan Đến Vấn Đề Nghiên Cứu
- Quản Lý Bồi Dưỡng Năng Lực Tổ Chức Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Giáo Viên Mầm Non
- Quản Lý Bồi Dưỡng Năng Lực Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Sống Cho Giáo Viên Mầm Non
- Quy Mô Trường, Lớp, Trẻ Em Mầm Non Thành Phố Lào Cai Từ Năm 2018-2020
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
* Quản lý giáo dục
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: "Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em" [14].
Theo Nguyễn Ngọc Quang thì: "Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch phù hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy - học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [20].
Bản chất của quản lý giáo dục được biểu hiện ở các chức năng quản lý. Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa đến một kết luận tương đối thống nhất về4 chức năng cơ bản của quản lý là: kế hoạch hóa; tổ chức; Chỉ đạo và Kiểm tra.
- Kế hoạch hóa: Lập kế hoạch, phổ biến kế hoạch.
- Tổ chức: Tổ chức triển khai, tổ chức nhân sự, phân công trách nhiệm.
- Kích thích: Khuyến khích tạo động cơ.
- Kiểm tra: Kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích.
Quản lý giáo dục trong nhà trường bao gồm: Quản lý hoạt động dạy học, quản lý giáo dục đạo đức, quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, quản lý giáo dục môi trường, quản lý giáo dục giới tính.
1.2.2. Kỹ năng sống, giáo dục kỹ năng sống
* Kỹ năng sống
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Có thể nêu ra một số cách tiếp cận kỹ năng sống như sau:
Xét ở phạm vi rộng, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đưa ra khái niệm về kỹ năng sống giáo dục dựa trên cơ sở gồm bốn mục tiêu - trụ cột cơ bản của giáo dục: Học để biết - Học để làm - Học để là chính mình - Học để cùng chung sống, đó là: kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng ngày [28].
WHO (1997) định nghĩa: kỹ năng sống là những năng lực giao tiếp đáp ứng và những hành vi tích cực của cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày [30].
Quỹ Cứu trợ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) (2012) đưa ra quan điểm: kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống [29]. Cách tiếp cận này nhấn mạnh sự cân bằng về tiếp thu tri thức, hình thành thái độ và kỹ năng nhằm giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả cũng đưa ra các định nghĩa khác nhau về kỹ năng sống.
Hoàng Thế Nhật (2015) cho rằng: “kỹ năng sống với tư cách là đối tượng của giáo dục kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” (dẫn theo [22]).
Lê Bích Ngọc (2009) xác định: “kỹ năng sống là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý, kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Những kỹ năng này giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển. kỹ năng sống còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại” (dẫn theo [11]).
Xem xét khái niệm kỹ năng sống dưới góc độ tâm lý học, Trình Dân và Nguyễn Thị Hòa (1993) đưa ra nhận định: “kỹ năng sống là một tổ hợp phức tạp của một hệ thống các kỹ năng nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công việc và tham gia và cuộc sống hàng ngày có kết quả, trong những điều kiện xác định của cuộc sống” (dẫn theo [24]).
Các quan niệm trên đều tập trung nhấn mạnh khả năng của cá nhân nhằm duy trì trạng thái tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi rường xung quanh. Kỹ năng có mối quan hệ mật thiết và cân
bằng với kiến thức và thái độ, đồng thời biểu hiện những giá trị sống trong hoạt động và giao tiếp hằng ngày.
Từ nghiên cứu các quan điểm trên, chúng tôi xác định: Kỹ năng sống là khả năng cá nhân con người có được thông qua giáo dục hoặc trải nghiệm thực tiễn, giúp cho con người ứng xử tích cực, hiệu quả với mọi biến đổi của đời sống xã hội, thích ứng với cuộc sống xã hội, sống mạnh khỏe và an toàn.
* Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức hiểu biết về thế giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người. Giáo dục đảm bảo sự kế thừa phát huy giữa các thế hệ. Quá trình giáo dục là sự truyền thụ kinh nghiệm, lịch sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị điều kiện cho họ bước vào cuộc sống xã hội và lao động sản xuất.
Giáo dục diễn ra thường xuyên liên tục ở mọi môi trường hoạt động của con người (trong gia đình, nơi làm việc, trong nhà trường, trong quan hệ xã hội...), trong đó môi trường giáo dục nhà trường có vai trò quyết định. Trong giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là quá trình hình thành con người dưới ảnh hưởng của các nhân tố tác động bên ngoài của môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh con người và dưới ảnh hưởng của các hoạt động chuyên biệt có mục đích của nhà giáo dục nhằm bồi dưỡng cho con người những điều kiện phẩm chất, kỹ năng cần thiết để họ tham gia vào đời sống xã hội.
Theo nghĩa hẹp: giáo dục là công tác giáo dục chuyên biệt do nhà giáo dục tiến hành trong các trường học chủ yếu là trong thời gian học.
Người ta có thể phân ra nhiều loại hình giáo dục khác nhau. Phân loại theo mục tiêu và đối tượng giáo dục: Có giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp; giáo dục phổ thông nhằm trang bị những kiến thức hiểu biết cơ bản, chủ yếu cho lớp vị thành niên trước khi tham gia vào quá trình giáo dục chuyên nghiệp bao gồm kiến thức khoa học tự nhiên, xã hội, phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ, kỹ năng cơ bản, năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân để tiếp tục học lên hoặc tham gia cuộc sống, xây dựng và bảo vệ tổ Tổ quốc.
Theo Hội ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội: Giáo dục đó là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người. Giáo dục diễn ra thường xuyên, liên tục ở nhiều môi trường hoạt động của con người (trong gia đình, nơi làm việc, trong nhà trường, trong quan hệ xã hội), trong đó, môi trường ở nhà trường có vai trò quyết định [12].
Theo Từ điển Tiếng Việt “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm dồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên và xã hội, cũng như những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong đời sống” [27].
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng chung quy lại có thể hiểu: giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm trang bị những tri thức cần thiết về mọi mặt cho đời sống con người, giáo dục diễn ra thường xuyên liên tục trong môi trường xã hội.
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống là hoạt động có ý thức của con người nhằm trang bị những tri thức cần thiết về kỹ năng sống, giúp cho con người ứng xử tích cực, hiệu quả với mọi biến đổi của đời sống xã hội, thích ứng với cuộc sống xã hội.
1.2.3. Bồi dưỡng, quản lý bồi dưỡng
* Bồi dưỡng
Theo Từ điển Giáo dục học: “Bồi dưỡng là trang bị thêm các kiến thức, kĩ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: Bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng lý luận, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm...” [18].
Theo các tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được hiểu là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, thái độ để nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực hoạt động mà người lao động đã có một trình độ năng lực chuyên môn nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó. Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao năng lực chuyên môn, nghề nghiệp. Quá trình này chỉ có thể diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hay kĩ năng chuyên môn của bản thân mình, đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Như vậy, bồi dưỡng là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm bổ sung, bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái đã có để mở mang, làm cho chúng phát triển thêm, có giá trị làm tăng hệ thống tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao động.
Bồi dưỡng là khâu tiếp nối của quá trình đào tạo, đây là yếu tố đảm bảo cho người giáo viên thực hiện thành công các yêu cầu nhiệm vụ luôn biến đổi theo nhu cầu của xã hội đối với giáo dục. Bồi dưỡng là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, đào tạo bổ sung hoặc củng cố kỹ năng nghề nghiệp theo chuyên đề, nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội củng cố và mở mang một cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả và thường xuyên xác định bằng chứng chỉ.
Tóm lại, Bồi dưỡng là quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng để củng cố, nâng cao phẩm chất và năng lực trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm.
* Quản lý bồi dưỡng
Quản lý bồi dưỡng là một quá trình tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức, nhằm bổ sung tri thức, kỹ năng để củng cố, nâng cao phẩm chất và năng lực trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn cụ thể từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đã đề ra.
1.2.4. Năng lực tổ chức giáo dục KNS cho giáo viên mầm non
* Năng lực
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê: “năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẽ có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người có khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao” [18].
Theo Québec- Ministere de l’Education (2004), “Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống phong phú của cuộc sống” (dẫn theo [22]).
Trong Từ điển Tâm lí học, năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí độc đáo hay các phẩm chất tâm lí của cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động xác định [18].
Theo Phạm Minh Hạc: “Năng lực là những đặc điểm tâm lí cá biệt, tạo thành điều kiện quy định tốc độ, chiều sâu, cường độ của việc tác động vào đối tượng lao động” [9].
Theo tác giả Bùi Minh Đức và Nhóm nghiên cứu của Đại học sư phạm Hà Nội 2: “Năng lực là sự huy động, vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như: hứng thú, niềm tin, ý chí,…vào việc thực hiện thành công hoạt động, giải quyết hiệu quả nhiệm vụ trong bối cảnh nhất định” (dẫn theo [13]).
Theo quan niệm của một số nhà khoa học: Năng lực được hiểu là kiến thức, kỹ năng, khả năng và hành vi của người lao động cần phải có để đáp ứng yêu cầu công việc và là yếu tố giúp cá nhân làm việc hiệu quả hơn so với những người khác. Năng lực của con người được ví như tảng băng trôi, bao gồm phần nổi và phần chìm: phần nổi chiếm từ 10-20% là nền tảng được giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm, kỹ năng, cảm xúc thật,… có thể nhìn thấy, nhận biết được thông qua hình thức như quan sát, phỏng vấn, đánh giá và theo dõi so sánh; Phần chìm chiếm từ 80-90% là phong cách tư duy (thiukiuy style), hành vi (behavioval tratits), sở thích nghề nghiệp (occupation interests), khả năng đáp ứng công việc (job fit)... còn tiềm ẩn chỉ được phát hiện và phát huy trong quá trình hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp.