dành cho giáo dục đại học. Chuyển đổi số trong cả quá trình học tập và giảng dạy dần trở thành các chính sách quan trọng trong phát triển giáo dục đại học tại nhiều quốc gia. Theo các số liệu báo cáo của Gaebel và Zhang (2018) thì áp dụng học tập kĩ thuật số đang được áp dụng, triển khai tại nhiều cơ sở giáo dục đại học. Phần lớn các tổ chức đều chấp nhận cao với giải pháp này (93%), đánh giá nó như một cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển (87%) và tích hợp nó vào các loại hình chiến lược khác (85%). Đặc biệt, 93% các tổ chức tham gia khảo sát cho rằng học tập kĩ thuật số đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới giáo dục đại học. Dạy học kết hợp (Blended learning) cũng được xác nhận là hình thức phổ biến nhất trên khắp châu Âu. Phần lớn các quốc gia, tổ chức đều nhìn nhận chuyển đổi số sẽ là xu thế phát triển giáo dục đại học thế kỉ 21, đây cũng sẽ là phương thức giúp thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia.
Đặc biệt trong giai đoạn 2020-2021, trước những tác động của dịch bệnh Covid 19 trên phạm vi toàn cầu, sự hiệu quả các giải pháp học tập trực tuyến đã cho thấy vai trò của chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiến bộ không ngừng của các nền tảng mới như AI, điện toán đám mây còn được dự báo sẽ mang đến nhiều những ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi số của giáo dục đại học.
5.1.1.6. Phát triển liên kết nhà trường - doanh nghiệp và đại học ứng dụng
Ngoài các tiêu chí truyền thống để đánh giá về trường đại học như danh tiếng học thuật, hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, cơ sở vật chất thì tỉ lệ sinh viên có được việc làm tốt cũng phản ánh sự hiệu quả của hoạt động đào tạo của các trường đại học. Bên cạnh đó, nhiều Chính phủ đã có những yêu cầu đối với các cơ sở giáo dục đại học phải có những định hướng đào tạo và đảm bảo chất lượng đầu ra cho sinh viên có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội. Những yêu cầu này mở ra một số giải pháp thúc đẩy chất lượng đào tạo bao gồm: (1) Mở rộng quyền học đại học; (2) Phát triển định hướng đào tạo ứng dụng và (3) Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Lịch sử giáo dục đại học toàn cầu ghi nhận xu thế chuyển đổi rõ nét của loại hình đào tạo này, đó là sự dịch chuyển từ đối tượng theo học từ nhóm tinh hoa sang loại hình đào tạo có tính đại chúng. Đặc điểm này được phản ánh rõ nét qua tốc độ phát triển của hệ thống giáo dục đại học toàn cầu và số lượng sinh viên toàn cầu. Từ những sự mở rộng này, đối tượng có thể tiếp cận giáo dục đại học đang gia tăng dần. Ngoài ra, sự gia tăng của số lượng các trường đại học cũng góp phần thúc đẩy mức độ cạnh tranh của ngành dẫn đến người học có thêm những quyền lợi và lựa chọn khi học đại học.
Sự phát triển của hệ thống các trường đại học ứng dụng (University of Applied Science) được ghi nhận như một xu thế phát triển giáo dục mới có mục đích đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội. Về cơ bản, các trường đại học ứng dụng chú trọng vào đào tạo kĩ năng và kiến thức thực tế cho sinh viên để phục vụ với công việc trong tương lai thay vì tích cực phát triển kiến thức hàn lâm như các trường đại học nghiên cứu. Vì những sự khác nhau trong định hướng đào tạo nên mục tiêu đầu ra của sinh viên các trường đại học ứng dụng sẽ yêu cầu cao về khả năng vận dụng
các kĩ năng nghề nghiệp. Tại nhiều quốc gia như Hà Lan, Thụy Sĩ, các trường đại học ứng dụng đang cho thấy những vai trò lớn vào hệ thống giáo dục và tạo dựng được danh tiếng trên phạm vi toàn cầu.
Một trong những điều kiện quan trọng để phát triển mô hình trường đại học ứng dụng đó là tăng cường liên kết nhà trường – doanh nghiệp. Tuy nhiên, gia tăng liên kết nhà trường – doanh nghiệp còn đóng những vai trò lớn hơn, không chỉ đơn thuần hỗ trợ đào tạo ứng dụng. Gia tăng cơ hội việc làm cho sinh viên, gia tăng nguồn lực phát triển, bổ sung thêm các năng lực còn thiếu cũng là những yếu tố giải thích cho tầm quan trọng của mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Kiểm Định Giá Trị Hội Tụ (Convergent Validity)
- Kiểm Định Đa Nhóm Theo Mức Độ Yêu Thích Ngành Học
- Kết Quả Phân Tích Mô Hình Cấu Trúc Tuyến Tính Sem
- Giải Pháp Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Sinh Viên Về Chất Lượng Và Giá Trị Dịch Vụ Giáo Dục Của Các Trường Đại Học Công Lập Khối Kinh Tế Và Quản
- Một Số Kiến Nghị Đảm Bảo Điều Kiện, Nguồn Lực Của Các Trường Đại Học Công Lập Khối Kinh Tế Và Quản Trị Kinh Doanh Tại Việt Nam
- Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên với giá trị và chất lượng dịch vụ của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh ở Việt Nam - 22
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
5.1.2. Dự báo một số thay đổi trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam chịu nhiều những ảnh hưởng chung của xu thế phát triển của giáo dục đại học toàn cầu. Tuy nhiên, những đặc điểm riêng biệt về môi trường, lịch sử phát triển và hình thành sẽ dự báo một số thay đổi riêng biệt trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam.
5.1.2.1. Mở rộng tự chủ đại học
Mặc dù tự chủ đại học không mới tại nhiều quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Tại những quốc gia này, hệ thống trường đại học tư thục phát triển vượt trội, các chính sách trao quyền tự chủ của các trường đại học được chính phủ ban hành từ rất sớm. Tại Việt Nam, Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định số 77/2014/NQ-CP và tiếp đó là Nghị định 16/2015/NĐ-CP cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, đã tạo điều kiện cho các trường đại học công lập tham gia thí điểm tự chủ. Mặc dù trong quá trình triển khai, các trường đại học cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo gặp phải một số khó khăn nhất định như sự thiếu đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật, sự thiếu thống nhất trong triển khai, năng lực quản trị tài chính, điều này phần nào được phản ánh thông qua việc các cơ quan quản lý đã liên tục đưa ra các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các nội dung liên quan đến tự chủ đại học như Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Nghị định 60/2021/NĐ-CP. Nhưng nhìn chung, các trường đại học áp dụng thí điểm tự chủ đại học có nhiều sự thay đổi đáng ghi nhận như chất lượng đào tạo được nâng cao, hệ thống cơ sở vật chất được nâng cấp, thu nhập của đội ngũ giảng viên và nhân viên được cải thiện. Cơ chế cho phép các trường đại học được tự chủ được đánh giá đóng vai trò tháo gỡ các nút thắt để các cơ sở giáo dục phát triển tốt hơn. Vì vậy, trong những năm tiếp theo, tự chủ đại học sẽ trở thành một xu thế quan trọng quyết định đến sự phát triển của giáo dục đại học tại Việt Nam.
5.1.2.2. Phát triển của hệ thống các trường đại học tư thục
Sau đổi mới, giáo dục đại học Việt Nam chứng kiến sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ngoài công lập. Hệ thống các trường đại học tư thục được thành lập và dần cho thấy vai trò quan trọng đối với quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Trong giai đoạn đầu, các trường đại học tư thục gặp nhiều khó khăn trong quá trình
hoạt động do những hạn chế về nguồn lực, sự thiếu linh hoạt trong cơ chế và xu hướng lựa chọn của người học. Tuy nhiên, sự thay đổi trong quan điểm của khách hàng và những nỗ lực trong cải thiện chất lượng dịch vụ đã giúp hoạt động của các trường đại học tư thục dần trở nên thuận lợi. Những năm gần đây, nhiều trường đại học tư thục đã cho thấy sự phát triển bền vững thông qua số lượng tuyển sinh, kết quả đánh giá ngoài và vị trí trong các bảng xếp hạng đại học như Trường Đại học Thăng Long; Trường Đại học FPT; Trường Đại học Nguyễn Tất Thành; Trường Đại học Hoa Sen…Mặc dù không có nhiều lợi thế về truyền thống và thường có mức học phí cao hơn các trường đại học công lập nhưng các trường đại học tư thục thường có hệ thống cơ sở vật chất tốt hơn, mối liên hệ với doanh nghiệp tốt hơn và có sự linh hoạt trong hoạt động vận hành. Theo chủ trương xã hội hóa giáo dục và tự chủ đại học cùng với những xu hướng đầu tư của các thành phần kinh tế vào lĩnh vực giáo dục đại học, hệ thống các trường đại học tư thục sẽ có nhiều cơ hội phát triển trong thời gian tới.
5.1.2.3. Sự gia tăng các chương trình liên kết đào tạo quốc tế
Liên kết quốc tế đang dần trở thành một xu thế tất yếu trong giáo dục đại học. Hướng đi này giúp các trường đại học tại Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá thông qua việc học hỏi, tiếp cận những giá trị tiên tiến từ các nền giáo dục phát triển. Liên kết đào tạo quốc tế đang trở thành một giải pháp cho thấy nhiều ưu điểm khi hài hoà lợi ích của các bên hữu quan bao gồm trường đại học trong nước, đại học nước ngoài và người học. Bên cạnh đó, những chương trình liên kết quốc tế nhận được sự quan tâm lớn từ người học trong những năm gần đây và đang dần trở thành một nguồn thu quan trọng để giúp các trường đại học tại Việt Nam phát triên trong bối cảnh tự chủ. Tại Việt Nam hiện nay, các chương trình đào tạo quốc tế liên kết với các đại học uy tín ở nước ngoài không ngừng gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Ở Việt Nam, hiện có khoảng 400 chương trình liên kết đào tạo với hơn 30 quốc gia trên thế giới đang được triển khai. Hình thức đào tạo của các chương trình liên kết cũng rất đa dạng, bên cạnh chương trình đào tạo toàn thời gian tại Việt Nam và cử giảng viên các trường đại học liên kết sang giảng dạy thì mô hình đào tạo 2+2 (2 năm học tại Việt Nam và 2 năm học tại đại học liên kết) hoặc 3+1 (năm cuối thực tập tại đại học liên kết) cũng được áp dụng phổ biến. Sự linh hoạt trong hình thức đào tạo của những chương trình này phần nào đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của người học. Nhưng bên cạnh những giá trị mang lại được xã hội thừa nhận thì chương trình liên kết đào tạo quốc tế cũng gặp nhiều vấn đề tranh cãi như chất lượng đào tạo, giá trị có tương xứng với chi phí hay các tiêu chuẩn ngoại ngữ khi tốt nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường đã học bên cạnh những nỗ lực mở rộng hình thức đào tạo liên kết được đánh giá có nhiều ưu điểm cũng đang áp dụng nhiều giải pháp để kiểm soát chất lượng hình thức đào tạo này. Nhu cầu từ người học và xu hướng thúc đẩy hợp tác quốc tế vẫn sẽ là những động lực lớn hỗ trợ phát triển các chương trình đào tạo liên kết trong thời gian tới.
5.1.2.4. Sự gia tăng các trường đại học được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Trong xu thế du học, đáng chú ý đó là nhu cầu “du học gần”, theo đó phụ huynh và học sinh có những nhu cầu về tiếp cận chương trình đào tạo quốc tế mà không cần dịch chuyển đến các quốc gia khác để học tập. Để đáp ứng nhu cầu này thì các trường đại học đã phát triển nhiều chương trình đào tạo liên kết với các trường đại học nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều trường đại học lớn trên thế giới mong muốn có thể hiện diện trực tiếp tại Việt Nam, sử dụng bộ máy quản lí và nhân sự chất lượng cao thay vì tổ chức liên kết dẫn đến nhiều cơ sở đại học quốc tế với vốn đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam. Những trường đại học có hình thức đầu tư này có thể kể đến: Trường Đại học RMIT; Trường đại học Công nghệ Swinburne; Trường Đại học Anh Quốc (BUV)… Những cơ sở giáo dục này thường có nguồn nhân lực chất lượng cao, chương trình đào tạo được giảng dạy bằng 100% ngoại ngữ và mức học phí ở mức rất cao so với mức trung bình của thị trường. Nhưng các cam kết về chất lượng đào tạo và cơ hội cho các bậc học tiếp theo giúp các cơ sở giáo dục này vẫn thu hút được nhiều sự quan tâm của học sinh, phụ huynh.
5.2. Quan điểm và một số định hướng nâng cao sự hài lòng của sinh viên về chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam
Căn cứ dựa theo Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo được ban hành ngày 4 tháng 11 năm 2013 và Luật Giáo dục đại học sửa đổi (2019). Một số quan điểm và định hướng nâng cao sự hài lòng của sinh viên về chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh được đề xuất như sau.
5.2.1. Quan điểm nâng cao sự hài lòng của sinh viên về chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam
Một là, nâng cao sự hài lòng của sinh viên phải dựa trên việc tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước đối với quá trình nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục đại học. Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của giáo dục đại học thông qua việc xây dựng các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học. Trong những năm gần đây, các chính sách được Nhà nước ban hành như chú trọng đảm bảo chất lượng đào tạo, thí điểm tự chủ đại học, khuyến khích hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học đã có những tác động tích cực đến không chỉ các trường đại học mà còn mang lại những lợi ích, quyền lợi cho người học. Nhờ những chính sách về đảm bảo chất lượng với nhiều tiêu chuẩn được ban hành, sinh viên đã có cơ hội được trải nghiệm với dịch vụ giáo dục đại học ở mức hoàn thiện hơn. Các hoạt động cốt lõi của giáo dục đại học như giảng dạy, hoạt động hành chính hỗ trợ, hoạt động ngoại khóa đều được nâng cao. Ngoài ra, sự thỏa mãn nhu cầu của người học dần được xác định là mục tiêu chính của hoạt động giáo dục đại học dưới cả góc độ tiếp cận của các trường
đại học và Nhà nước. Nếu trước kia, giáo dục đại học dành cho đội ngũ tinh hoa thì giờ đây sự mở rộng đối tượng đào tạo đã tạo ra tính đại chúng cho giáo dục đại học. Các chính sách của Nhà nước ban hành yêu cầu lấy lợi ích người học là trung tâm với mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi đó, việc nâng cao chất lượng dịch vụ, gia tăng giá trị cho sinh viên sẽ giúp các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tạo ra lợi thế cạnh tranh, thu hút và giữ chân được người học, từ đó đạt được tính bền vững trong phát triển.
Hai là, nâng cao sự hài lòng của sinh viên phải dựa trên việc đẩy mạnh xã hội hóa, gia tăng tự chủ giáo dục đại học để cải thiện chất lượng đào tạo. Để có thể nâng cao chất lượng và giá trị cho dịch vụ giáo dục đại học thì cần sự bổ sung các nguồn lực tài chính lớn. Kinh nghiệm từ sự phát triển giáo dục đại học trên thế giới và Việt Nam đã chỉ ra tầm quan trọng của nguồn lực tài chính đối với sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học. Trong bối cảnh các trường đại học tư thục đang được đầu tư mạnh từ các thành phần kinh tế tư nhân, các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh đứng trước nhiều thách thức do những hạn chế từ chính sách quản lí và điều kiện thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Ngoại trừ các trường được cho phép tự chủ tài chính, thì đa số các đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam đang vẫn đang hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước. Việc hoạt động và chịu sự quản lí của Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan chủ quản phần nào khiến các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh chưa tự chủ rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn lực, không có cơ hội bổ sung các nguồn lực tài chính từ các tổ chức xã hội. Trong khi đó, các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh đã thực hiện tự chủ tài chính đã có nhiều khởi sắc trong hoạt động nâng cao chất lượng đào tạo nhờ sự linh hoạt trong quản lí, những hỗ trợ tài chính từ chính sách thu học phí. Ngoài ra, tại các cơ sở giáo dục đại học đã thực hiện tự chủ, nhiều thành viên hội đồng trường đến từ các tổ chức xã hội bên ngoài đã nâng cao tính dân chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động quản trị. Mặc dù vẫn còn nhiều tồn tại, nhưng thúc đẩy xã hội hóa và tự chủ giáo dục đại học sẽ đóng vai trò then chốt trong việc cải thiện dịch vụ giáo dục đại học tại các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh. Đối với các trường đại học đã được giao quyền tự chủ, thúc đẩy đa dạng các loại hình đào tạo, hoàn thiện bộ máy quản trị sẽ là những nhiệm vụ quan trọng để thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học.
Ba là, nâng cao sự hài lòng của sinh viên phải hướng đến chủ động hợp tác quốc tế và tăng cường gắn kết nhà trường - doanh nghiệp. Những mục tiêu lớn liên quan đến hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học tại Việt Nam đến năm 2025 bao gồm: (1) 100% cơ sở giáo dục đại học khai thác các chương trình đào tạo, học liệu mở được cung cấp bởi các đại học danh tiếng trên thế giới; (2) Trên 70% cơ sở giáo dục đại học có ngành đào tạo trong 8 ngành đã được công nhận lẫn nhau trong khu vực ASEAN và hoàn thành các thủ tục về công nhận bằng cấp, chuyển đổi tín chỉ/học phần với các trường đại học
trong khu vực; (3) Trên 70% các trường đại học có hoạt động trao đổi sinh viên và giảng viên với các trường đại học trên thế giới. Ngoài ra, mục tiêu có ít nhất hai trường đại học được xếp hạng trong danh sách 100 trường đại học hàng đầu châu Á, 10 trường đại học được lọt vào danh sách 400 trường đại học tốt nhất châu Á và 4 cơ sở giáo dục đại học được xếp hàng trong số 1000 trường đại học hàng đầu thế giới. Trong xu hướng toàn cầu hóa, thu nhập của người dân có xu hướng tăng cao so với trước kia, các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh của các trường đại học trong nước mà còn phải chịu áp lực lớn từ các đại học danh tiếng tại các quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy, không ngừng học hỏi, tiếp thu những thành tựu và kinh nghiệm của các cơ sở giáo dục từ các quốc gia có nền giáo dục phát triển là sự lựa chọn đúng đắn để thu hẹp khoảng cách về chất lượng và giá trị của dịch vụ giáo dục đại học. Tránh lãng phí nguồn nhân lực, nâng cao khả năng đáp ứng của sinh viên đối với doanh nghiệp sau khi tốt nghiệp cũng là những mục tiêu quan trọng trong phát triển giáo dục đại học. Do đó, vai trò của mối liên hệ giữa nhà trường – doanh nghiệp cần được nâng cao, doanh nghiệp không chỉ tạo ra cơ hội việc làm cho sinh viên như trước kia mà còn cần tham gia quá trình đào tạo, hỗ trợ các trường đại học về kiến thức thực tế, tạo môi trường thực tập thuận lợi cho sinh viên. Tại các quốc gia châu Âu, doanh nghiệp đóng vai trò lớn trong đào tạo và đánh giá năng lực của sinh viên và chất lượng tương tác doanh nghiệp được xem xét như một cấu thành quan trọng của chất lượng dịch vụ giáo dục đại học, các kì thực tập để trau dồi kĩ năng được tổ chức thường xuyên dưới sự giám sát của cả nhà trường và doanh nghiệp. Những hoạt động này đóng góp lớn vào quá trình nâng cao kĩ năng nghề nghiệp song song với kiến thức lý thuyết trên giảng đường cho sinh viên. Không chỉ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ, những hoạt động từ quá trình tương tác với doanh nghiệp của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh còn bổ sung kiến thức thực tế cho sinh viên (giá trị tri thức), gia tăng giá trị bằng cấp (giá trị chức năng), tạo thêm động lực học tập (giá trị cảm xúc) hay hình ảnh và sự thừa nhận của cộng đồng (giá trị xã hội). Với những ý nghĩa trên, phát triển mối liên kết nhà trường – doanh nghiệp sẽ là hướng đi phù hợp giúp các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh nâng cao chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục đại học.
Bốn là, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm chất lượng, công khai, minh bạch trong giáo dục đại học. Không chỉ riêng các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh, sự phát triển của mỗi trường đại học đều chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố môi trường kinh doanh. Khi tiếp cận dịch vụ giáo dục như một loại hình dịch vụ thuần túy thì mỗi cơ sở giáo dục đại học được đánh giá như một doanh nghiệp. Những quan điểm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo sự bình đẳng giữa các trường đại học công lập và tư thục, hướng đến các mục tiêu bảo đảm chất lượng, gia tăng sự minh bạch và công khai sẽ góp phần giúp thu hút được những nguồn lực đầu tư vào giáo dục đại học cũng nâng cao hiệu quả quản trị đại học.
5.2.2. Định hướng nâng cao sự hài lòng của sinh viên về chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam
5.2.2.1. Nâng cao chuẩn đầu ra về kiến thức, kĩ năng, trình độ ngoại ngữ cho sinh viên
Từ năm 1945 đến những năm cuối thế kỉ 20, do những hạn chế về nguồn lực cung ứng dịch vụ giáo dục đại học nên chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh còn hạn chế. Vì vậy, trong một thời gian dài, việc sở hữu bằng đại học được xem như một lợi thế lớn của mỗi cá nhân khi tham gia thị trường lao động. Tuy nhiên, sự mở rộng của hệ thống các trường đại học đã phần nào giải quyết vấn đề nguồn cung nhân lực. Do đó, nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động đang chi phối lớn đến cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Quá trình hội nhập của nền kinh tế đã đặt ra những yêu cầu nâng cao kĩ năng ngoại ngữ, kĩ năng mềm cho sinh viên. Hiện nay, đề cao nâng cao chất lượng giáo dục đại học cũng đã nhấn mạnh đến các tiêu chuẩn đầu ra về kiến thức, kĩ năng, ngoại ngữ của sinh viên. Theo đó, 100% sinh viên khi tốt nghiệp cần đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu của chương trình đào tạo. Về kĩ năng sử dụng ngoại ngữ, các cơ sở giáo dục đại học được yêu cầu cần lựa chọn các tiêu chuẩn gắn với các chứng chỉ quốc tế, được công nhận trên phạm vi toàn cầu. Thực tế, các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đào tạo kĩ năng, cập nhật nội dung chương trình giảng dạy và áp dụng đầu ra ngoại ngữ liên quan đến các chứng chỉ Toeic, Ielts cho sinh viên khi tốt nghiệp. Mặc dù những tiêu chuẩn đầu ra khắt khe có thể mang lại những thách thức ngắn hạn cho cả các trường đại học và cả người học, nhưng đây là những giải pháp mang lại những giá trị, lợi ích lớn cho sinh viên trong dài hạn và đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu của người học.
5.2.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đào tạo
Chất lượng và giá trị dịch vụ giáo dục đại học có sự phụ thuộc lớn vào yếu tố con người. Hoạt động giảng dạy, hành chính hỗ trợ, nghiên cứu và phát triển chương trình đào tạo đều có sự tham gia của con người. Đề án nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đã nêu rõ nhưng mục tiêu lớn để phát triển nguồn nhân lực các trường đại học. Theo đó, đến năm 2025 đạt tỉ lệ 100% giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên và tối thiểu 35% có trình độ tiến sĩ. Để thực hiện mục tiêu này, nhiều đề án hỗ trợ đào tạo tiến sĩ cho đội ngũ giảng viên được Nhà nước cũng như các cơ sở giáo dục đại học áp dụng thông qua các học bổng chính phủ, những gói hỗ trợ tài chính cho giảng viên theo học nghiên cứu sinh và cơ hội tu nghiệp nâng cao chuyên môn ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển. Việc trình độ của đội ngũ giảng viên được nâng cao sẽ góp phần cải thiện chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, nâng cao danh tiếng học thuật cho trường đại học và nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu của sinh viên.
5.2.2.3. Tăng cường nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng
Những hạn chế về nguồn lực và sự định hướng phát triển đã khiến vai trò của các công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phục vụ cộng đồng tại các trường đại học
công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam chưa được đánh giá đúng. Trong quá khứ, các hoạt động nghiên cứu của các trường đại học thường có tỉ trọng tương đối nhỏ so với hoạt động giảng dạy. Các sản phẩm từ các công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng chưa cao và hạn chế trong việc hỗ trợ các trường nâng cao danh tiếng học thuật trên phạm vi thế giới. Đặc biệt, các trường đại học khối kinh tế và quản trị kinh doanh với các chủ đề nghiên cứu về khoa học xã hội thường bị xem xét thiếu tính ứng dụng. Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập toàn cầu và theo đuổi các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, những khiếm khuyết này đã dần bị bộc lộ. Sự thiếu hụt các công trình nghiên cứu công bố quốc tế, các ứng dụng khoa học công nghệ đã dẫn đến thực trạng các trường đại học khối kinh tế và quản trị kinh doanh tại Việt Nam không được đánh giá cao so với các trường đại học khác ở cùng khu vực và trên thế giới. Dưới góc độ tiếp cận nâng cao lợi ích, giá trị cho sinh viên, hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sẽ hỗ trợ người học có thể tiếp cận với những kiến thức có mức độ chuyên sâu cao và gia tăng cơ hội phát triển quá trình học tập tại các cấp học cao hơn. Hoạt động chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng phản ánh trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học và có tác động đến hình ảnh xã hội của các trường đại học cũng như giá trị xã hội mà sinh viên có thể cảm nhận.
5.2.2.4. Đổi mới, phát triển chương trình đào tạo hướng đến nhu cầu các bên liên quan
Trước những yêu cầu đổi mới chương trình đào tạo hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu người học và thị trường lao động, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học công lập khối kinh tế và quản trị kinh doanh đã có nhiều nỗ lực trong việc đưa ra các giải pháp cải thiện thực trạng này. Trước đây, chương trình đào tạo được xây dựng tại các trường đại học thường thiếu sự linh hoạt, chưa thể đáp ứng cao nhu cầu của người học, doanh nghiệp nên tạo ra nhiều khó khăn cho người học, quá trình vận hành của cơ sở giáo dục cũng như các tổ chức tuyển dụng sinh viên sau tốt nghiệp. Do đó, chương trình đào tạo được đánh giá tốt trong bối cảnh hiện nay cần được đánh giá dựa trên những giá trị mang lại cho các bên bao gồm: (1) Sinh viên; (2) Trường đại học; (3) Doanh nghiệp tuyển dụng và (4) Cơ quan quản lí giáo dục đại học nên sự tham gia của những nhóm đối tượng này trong việc định hướng, xây dựng chương trình đào tạo là vô cùng cần thiết. Cụ thể, sinh viên với vai trò đối tượng trung tâm và trực tiếp trải nghiệm dịch vụ sẽ cung cấp các nhu cầu, mong muốn đối với chương trình đào tạo; Trường đại học sẽ cân bằng các yêu cầu về chương trình đào tạo từ các bên đối với định hướng phát triển, nguồn lực, năng lực mà trường sở hữu; Doanh nghiệp sẽ đóng vai trò cung cấp các thông tin thực tế từ nhu cầu thị trường lao động và Cơ quan quản lí sẽ kiểm soát các quy trình để đảm bảo các cơ sở giáo dục đại học thực hiện đúng các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5.2.2.5. Tăng cường kiểm định chất lượng giáo dục đại học
Kiểm định chất lượng giáo dục được nhìn nhận là giải pháp hiệu quả để duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục đại học tại nhiều quốc gia trên thế giới. Không chỉ dừng lại ở