Đánh giá tình hình hoạt động của trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hồ Chí Minh - 2


Là không xác định rõ thời gian triển khai hoặc xác định thời gian triển khai nhưng đến

thời hạn đó không thực hiện

( Nguyên thứ trưởng Đặng Hùng Võ phát biểu trên website Đảng Cộng Sản ngày 03/02/07)

Là quy hoạch mà không thể thực hiện trong thời kỳ kế hoạch năm năm và hằng năm

thì bản thân quy hoạch đã bị treo

( Nguyên Bộ Trưởng Mai Ái Trực phát biểu trên website Đảng Cộng Sản ngày 30/10/06)

- Dự án “treo”:

Là các doanh nghiệp được giao các dự án nhưng thực tế không có năng

lực để triển khai.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.

Là dự án đã được quy hoạch, đã ghi vào kế hoạch sử dụng đất mà sau 3

năm chưa xác định chủ đầu tư.

Đánh giá tình hình hoạt động của trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hồ Chí Minh - 2

Là dự án đã hoàn thành việc bồi thường, được bàn giao đất ngoài thực địa nhưng sau 12 tháng kể từ ngày bàn giao đất hoặc triển khai dự án chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư.

- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất:

Là bản đồ thể hiện sự phân bố các loại đất tại một thời điểm xác định, được

lập theo đơn vị hành chính

- Bản đồ quy hoạch sử dụng đất:

Là bản đồ được lập tại thời điểm đầu kỳ quy hoạch, thể hiện sự phân bổ các

loại đất tại thời điểm cuối kỳ quy hoạch.

- Bản đồ địa giới hành chính:

Là bản đồ thể hiện ranh giới các đơn vị hành chính và các yếu tố địa vật, địa hình có liên quan đến mốc địa giới hành chính

- Bản đồ hành chính:

Là bản đồ thể hiện ranh giới các đơn vị hành chính kèm theo địa danh và một số yếu tố chính về tự nhiên, kinh tế, xã hội

- Tổ chức sự nghiệp công:

Là tổ chức do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thành lập, có chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ công do ngân sách nhà nước chi trả.

- Đơn vị sự nghiệp:

Đơn vị sự nghiệp là những những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sự nghiệp, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường y tế, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm… do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, các đơn vị sự nghiệp được nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao. Ngoài ra đơn vị sự nghiệp được phép thu thông qua hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ rất đa dạng và hầu hết các lĩnh vực.


I.1.2 Cơ sở pháp lý:

Đất nước ta trong quá trình đổi mới và hội nhập vì vậy pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng cần phải hoàn thiện hơn để đi vào thực tiễn.

- Luật đất đai 2003 ban hành ngày 10/12/2003 quy định về quản lý và sử dụng đất đai

- Nghị định 197/2004/NĐ-CP của chính phủ về bồi thường hổ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về thi hành luật đất đai

- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của chính phủ về sửa đổi và bổ sung một số điều của các nghị định, hướng dẫn thi hành luật đất đai 2003 và nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hổ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai

- Nghị định 87/CP ngày 17/08/1994 ban hành khung giá các loại đất để tính thuế quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất khi giao đất, cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất và đền bù thiện hại khi nhà nước thu hồi đất.

- Công văn 7623/UBND-ĐT về việc điều chỉnh việc thực hiện việc điều tiết quỹ nhà ở, đất ở tại chỉ thị số 07/2003/CT-UB ngày 23/04/2003 của UBND TP trong đó quy định

- Quyết định 15/2001/QD-UB ngày 23/02/2001 quy định trên về đền bù trên đất

- Quyết định 106/2005/QĐ-UBND ngày 16 tháng 6 năm 2003 của UBND. TP Hồ Chí Minh ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

- Căn cứ Quyết định số 64/2001/QĐ-UB ngày 30/7/2001 của UBND thành phố quy định hạn mức đất ở tại thành phố.

- Nghị định 198/2004/ NĐ-CP của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất

- Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

- Luật đất đai 1993 và luật sửa đổi bổ sung 1998, 2001.

- Luật đất đai 2003.

- Quyết định 71/2001/QĐ-UB ngày 29/08/2001 quy định về đền bù đất đai

- Quyết định 15/2001/QĐ-UB

- Ngày 23/02/2001 quy định về đền bù tài sản trên đất

- Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và tổ chức phát triển quỹ đất.

- Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 hướng dẫn nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của chính phủ về bồi thường, hổ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.


- Luật đất đai 2003 quy định: (điều 41) nhà nước quyết định thu hồi đất và giao đất cho tổ chức phát triển quỹ đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập để thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và trực tiếp quản lý quỹ đất đã thu hồi đối với trường hợp sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố mà chưa có đầu tư.

- Nghị định 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại giá đất.

- Thông tư 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định 188/2004/ND-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.

- Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất ( ban hành kèm theo Quyết định số 216/2005/QD-TTg ngày 31/08/2005 của Thủ tướng chính phủ )

- Luật đấu thầu của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số

61/2005/QH11 ngày 29/11/2005

I.1.3 Cơ sở thực tiễn:

Hiện nay ở TP.HCM có nhiều dự án đã có quyết định thu hồi đất và tạm giao cho chủ đầu tư để thực hiện dự án, hầu hết các quyết định thu hồi đất này đều thực hiện trước ngày 1-7-2004 (ngày Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực). Nhưng đến nay một số dự án chưa được triển khai đúng tiến độ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người sử dụng đất bị thu hồi.

Để đảm bảo quyền lợi người dân, UBND TP phải áp dụng khoản 12 điều 38 Luật đất đai năm 2003 để thu hồi đất các dự án mà chủ đầu tư không sử dụng trong 12 tháng liền, hoặc các dự án mà chủ đầu tư chậm sử dụng đất trong 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án, các đơn vị và các tổ chức được nhà nước giao đất việc triển khai dự án còn quá chậm hoặc cho các đơn vị khác thuê thì sẽ được thu hồi quỹ đất giao cho các dự án đầu tư có khả thi hơn.

Số liệu báo cáo của Trung tâm Phát triển quỹ đất cho biết từ năm 2003 đến nay, UBND TP đã có quyết định thu hồi đất dự án, huỷ bỏ quyết định thu hồi, giao đất đối với 29 dự án không hoặc chậm triển khai thực hiện; chủ đầu tư không có năng lực thực hiện dự án; dự án không khả thi... Tổng diện tích của các dự án bị thu hồi lên tới 432,5ha; chỉ tính riêng từ đầu năm 2003 đến nay có 10 dự án bị xử lý thu hồi với diện tích 83ha.

Sau ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, tình trạng "dự án ma", dự án thiếu hiệu quả được khắc phục đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều dự án sử dụng đất không hợp lý. Không hợp lý từ quy hoạch sử dụng đất hoặc không hợp lý từ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất hoặc không hợp lý từ thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Các sân gôn, khu du lịch sinh thái với những diện tích đất siêu rộng vẫn quá nhiều, nhiều hơn nhu cầu giải trí thực tế.

Từ sau, Luật Đất đai 2003 và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ra đời có quy định rất rõ về cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất. Tinh thần của pháp luật về đất đai lúc đó là khuyến khích cơ chế thu hồi đất theo quy hoạch, việc này do Trung tâm phát triển quỹ đất thực hiện, quản lý đất sạch và đưa vào đấu giá.

Trong thực tế, cơ chế này lại ít được các địa phương hưởng ứng, cơ chế thu hồi đất

theo dự án được áp dụng phổ biến, khi đất chưa giải phóng mặt bằng lại không phải


đấu giá, Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc thu hồi đất và UBND TP.HCM giao trực tiếp cho chủ đầu tư.

Có khi dự án triển khai đầu này mà đầu kia vẫn còn đang thu hồi đất. Nhà đầu tư phải tham gia trực tiếp vào bồi thường khi thu hồi đất. Khiếu kiện cũng từ đấy mà phát sinh, có khi kiện về thu hồi đất trái quy hoạch, có khi kiện về thu hồi đất sai thủ tục, có khi kiện về mức bồi thường không thỏa đáng, có khi kiện về thiếu công bằng trong bồi thường, v.v. Như vậy, cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất đã đưa ra nhưng áp dụng chưa nhiều.

Nghị định 84 ra đời quy định cho phép người dân có thể tự đầu tư trên đất đang sử dụng trong trường hợp đất thuộc diện thu hồi để đầu tư dự án có mục đích sản xuất kinh doanh hoặc xây dựng kinh doanh nhà ở

Với quy định này, nhà đầu tư và người có đất có thể liên doanh, liên kết với nhau để thực hiện dự án. Thực tế tại TP.HCM có rất nhiều trường hợp người dân có diện tích đất nông nghiệp lớn, có nhu cầu đầu tư hoặc góp QSDĐ để đầu tư. Quy định cho phép nhiều người dân đang sử dụng đất liền kề nhau có thể làm đơn đề nghị tự đầu tư dự án sẽ tạo ra một bước đột phá mới cho các dự án nhà ở. Mặt khác nếu có sự liên kết đầu tư giữa những người dân có đất với các DN thì dự án sẽ được triển khai nhanh chóng hơn. Quy định mới trong NĐ 84 sẽ là lối ra cho nhiều dự án, bởi những người dân có diện tích đất lớn thường có khả năng về tài chính và do vậy rất khó thỏa thuận đền bù giải tỏa. Khi đã liên kết với các DN, họ sẽ tập trung nguồn lực để cùng DN kinh doanh ngay trên đất của mình.

Ngoài việc xử lý những dự án “treo”, Trung tâm Phát triển quỹ đất còn đẩy nhanh việc thẩm định năng lực tài chính của chủ đầu tư khi giao đất hoặc cho thuê đất, còn thực hiện hạn chế việc giao đất cho các dự án nhỏ lẻ; yêu cầu chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt...,Thực hiện giao đất cho các dự án lớn để đảm bảo kết nối hạ tầng, đồng bộ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; giao đất qua hình thức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư hoặc đấu giá đất nhằm tìm ra những nhà đầu tư có năng lực về vốn, năng lực quản lý điều hành để tiến hành dự án

Hiện nay TP.HCM với mức độ đầu tư vào bất động sản rất lớn tình trạng chuyển mục đích đất nông nghiệp sang làm dự án rất phổ biến, trong đó không ít "dự án ma" sử dụng không đúng mục đích và gây lãng phí. Giá trị của đất phi nông nghiệp cao hơn nhiều so với đất nông nghiệp, nhiều người muốn có dự án để có điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng sang phi nông nghiệp vì vậy điều khó tránh khỏi nhiều dự án sử dụng đất không hợp lý.

Như chúng ta đã biết đất đai là lĩnh vực dễ dẫn đến tiêu cực, các cơ chế chính sách cũng như cũng như các văn bản chưa phù hợp do yếu tố khách quan cũng như điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng, miền khác nhau. Điều này dẫn đến giá đền bù gốc và giá kinh doanh lại cách nhau đến nhiều lần, Để đảm bảo công bằng cho người nông dân thiếu đất và đảm bảo không làm thất thoát ngân sách nhà nước chúng ta cần:

Công khai, minh bạch là giải pháp rất cần thiết. Công khai ở đây là phải công bố rõ cho dư luận thông tin về dự án, mức đền bù và công khai đấu thầu và chủ đầu tư phải công bố luôn kế hoạch của mình. Đồng thời, phải quy định nếu giá đất đấu thầu được cao thì có thể trích lại để hỗ trợ những người mất đất và từng bước công khai hóa thông tin về quy hoạch sử dụng đất, về dự án, về địa điểm đầu tư. Lúc đó, nhà đầu tư không phải vất vả trong việc tìm thông tin về địa điểm làm như thế chủ đầu tư và dân


rất phấn khởi tạo lòng tin của người dân và tạo môi trường đầu tư lành mạnh và thân thiện hơn chủ đầu tư trong và ngoài nước.

I.2 khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của TP.HCM

I.2.1 Điều kiện tự nhiên

a) Vị trí địa lý

Thành phố Hồ Chí Minh thuộc khu vực Nam Bộ, trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi hội lưu của các con sông như sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Thành phố Hồ Chí Minh trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có tọa độ địa lý từ 10022’13” đến 11022’17” vĩ độ Bắc và 106001’25” đến 107001’10” kinh độ Đông, giáp ranh với các tỉnh: Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai; phía Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An, Tiền Giang; phía Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh; Phía Nam giáp biển Đông; Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương.

Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 209.554,47 ha, gồm 19 quận: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Gò Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận, Thủ Đức, Bình Tân, Tân Phú và 5 huyện: Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ.

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất cả nước, một trong những đầu mối kinh tế lớn hội đủ các điều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không, nối liền với các địa phương trong nước và quốc tế.

Hệ thống thương cảng quốc tế Sài Gòn nối liền với các cảng trong nước và thế giới

(như khu cảng Sài Gòn, khu cảng Nhà Bè, khu cảng Cát Lái...).

Hệ thống đường bộ có Quốc lộ 1A nối liền Thành phố với các tỉnh phía Bắc và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; Quốc lộ 22 đi Tây Ninh nối liền với Campuchia; Quốc lộ 13 qua Bình Dương, Bình Phước nối liền với Quốc lộ 14 kéo dài suốt Tây nguyên; Quốc lộ 51 nối liền với Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc lộ 50 đi Long An, Tiền Giang và nhiều tỉnh lộ nối trực tiếp với các tỉnh xung quanh.

Thành phố cũng là đầu mối cuối cùng của đường sắt thống nhất Bắc – Nam, Sân bay

Tân Sơn Nhất là một sân bay quốc tế lớn của nước ta.

Nhìn chung, vị trí của Thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thành một đô thị hiện đại, một trung tâm kinh tế lớn và năng động ngang tầm các nước trong khu vực. Song đó cũng là nhân tố gây sức ép mạnh mẽ đến môi trường và đất đai của Thành phố.

b) Địa hình, địa mạo

Địa hình Thành phố Hồ Chí Minh phần lớn bằng phẳng, thấp, có một phần diện tích dạng đất gò ở phía Bắc và Đông Bắc với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Địa hình Thành phố có thể chia thành bốn dạng chính:

- Dạng đất gò cao:

Có độ cao biến thiên từ 4 đến 32 m. Trong đó phần diện tích có độ cao từ 4 – 10 m chiếm khoảng 19% tổng diện tích tự nhiên; phần diện tích có độ cao trên 10 m chiếm khoảng 11% tổng diện tích tự nhiên. Dạng địa hình này phân bố chủ yếu ở huyện Củ Chi và một phần ở Quận 9, Thủ Đức.

- Dạng đất bằng thấp: Chiếm khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên. Độ cao 2 - 4 m, điều

kiện tiêu thoát nước tương đối thuận lợi. Phân bố chủ yếu ở các quận nội thành, một


phần ở Thủ Đức, Hóc Môn nằm dọc theo sông Sài Gòn và phía Nam huyện Bình Chánh.

- Dạng trũng thấp, lầy ở phía Tây Nam: Chiếm khoảng 34% diện tích tự nhiên, độ cao phổ biến từ 1 - 2 m. Phân bố dọc theo kênh An Hạ, Lê Minh Xuân, Tân Nhựt, Tam Tân, Thái Mỹ kéo dài từ các huyện Bình Chánh đến Củ Chi, khu vực trung tâm huyện Nhà Bè, Bưng Sáu Xã của Thủ Đức (cũ) và phía Bắc huyện Cần Giờ.

- Dạng trũng thấp mới hình thành ven biển: Chiếm khoảng 21% tổng diện tích tự nhiên. Dạng địa hình này có độ cao phổ biến khoảng 0 - 1 m, nhiều nơi có độ cao thấp hơn mực nước biển, nhìn chung đa số chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng ngày.

c) Khí hậu: Thành phố nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo với hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.

- Nhiệt độ: Nhiệt độ cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình cả năm khoảng 280C (dao động trong khoảng 26,6 - 30,10C). Chênh lệch nhiệt độ giữa tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất khoảng 40C, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4, thấp nhất là tháng 12.

Lượng bức xạ dồi dào (trung bình khoảng 140 Kcal/cm2/năm) nhưng có sự khác biệt về cấu trúc mùa. Mùa khô có bức xạ mặt trời cao, thời kỳ có bức xạ cao vào tháng 4 và 5 (đạt 400 - 500 cal/cm2/ngày). Mùa mưa có bức xạ mặt trời thấp hơn, cường độ bức xạ cao nhất đạt 300 - 400 cal/cm2/ngày.

- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình cả năm khoảng 75%. Có sự chênh lệch rõ rệt theo mùa.

- Lượng mưa: Lượng mưa thay đổi theo từng khu vực và phân bố không đều, tập trung

chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 11, lớn nhất vào tháng 7 hoặc tháng 10

- Chế độ gió: Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hai hướng gió mùa chủ yếu: Từ ngoài biển Đông thổi về theo hướng Đông Nam - Tây Bắc (thịnh hành trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 4); Từ Ấn Độ Dương thổi về theo hướng Tây Nam - Đông Bắc (thịnh hành trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10).

Ngoài ra còn có hướng gió từ phương Bắc thổi về, đây là hướng gió thịnh hành trong tháng 11, 12 và tháng 1. Hướng gió hoạt động trong năm có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí các khu công nghiệp, dân cư, nhất là các ngành công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm không khí.

d) Thuỷ văn: Thành phố nằm giữa hai sông lớn là sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông

và chịu ảnh hưởng lớn của sông Đồng Nai.

- Sông Đồng Nai: Là sông lớn nhất trong hệ thống Đồng Nai - Sài Gòn. (Sông Đồng Nai nối thông qua sông Sài Gòn bằng hệ thống kênh Rạch Chiếc). Tại địa phận Quận 9, sông rộng 400 - 600 m. Lòng sông không sâu so với các sông khác, độ sâu trung bình 12 - 15 m, dòng chảy trung bình 500 m3/s.

- Sông Sài Gòn: Là sông có độ dốc nhỏ, lòng dẫn hẹp nhưng sâu, ít khu chứa do vậy thuỷ triều truyền vào rất sâu và mạnh. Chế độ thuỷ văn, dòng chảy của các kênh rạch trong Thành phố chịu ảnh hưởng chủ yếu của sông Sài Gòn.

- Sông Vàm Cỏ Đông: Sông Vàm Cỏ Đông có rất nhiều sông nhánh nối với hệ thống

kênh rạch khu vực Tây Nam Thành phố.

- Hệ thống kênh rạch của Thành phố có thể khái quát làm hai hệ thống chính: Hệ thống các kênh rạch đổ vào sông Sài Gòn với hai nhánh chính là rạch Bến Cát và kênh


Nhiêu Lộc - Thị Nghè và Hệ thống kênh rạch đổ vào sông Bến Lức và kênh Đôi, kênh Tẻ như rạch Tân Kiên, rạch Bà Hom, rạch Tân Hoá - Lò Gốm... Đặc điểm của các kênh rạch này là chúng tương đối độc lập và bắt nguồn từ vùng đất cao.

Nét nổi bật chi phối tất cả các chế độ dòng chảy trong khu vực Thành phố là sự xâm nhập của thuỷ triều. Phân tích biên độ dao động của thuỷ triều tại các trạm Bến Lức, Gò Dầu Hạ (trên sông Vàm Cỏ Đông), các trạm Nhà Bè, Phú An, Thủ Dầu Một (trên sông Sài Gòn) cho thấy biên độ dao động thuỷ triều dọc sông Sài Gòn thay đổi và giảm dần từ cửa sông đến Dầu Tiếng và biên độ dao động của thuỷ triều trên sông Vàm Cỏ Đông nhỏ hơn trên sông Sài Gòn rất nhiều. Với chế độ dòng triều như vậy cho nên hầu như các ảnh hưởng và sự trao đổi dòng chảy giữa hai sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông rất yếu và đó cũng là nguyên nhân tạo ra các giáp nước (nơi dòng chảy đổi chiều, tốc độ dòng chảy bằng 0 hoặc gần bằng 0) trên sông Bến Lức và kênh Thầy Cai.

e) Tài nguyên đất

Theo tài liệu khảo sát thổ nhưỡng, trên địa bàn các huyện và quận ven Thành phố Hồ

Chí Minh, có 6 loại đất chính sau đây:

- Đất cát:

Đất cát có diện tích 6.704 ha, chiếm 3,2% diện tích tự nhiên. Phân bố ở huyện

Cần Giờ.

Đất có tỷ lệ cấp hạt cát cao (76 - 85%), trong đó cấp hạt cát mịn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các cấp hạt (47 - 53%), tỷ lệ cấp hạt sét và limon rất thấp (15 - 17%). Đất cát nghèo mùn, đạm, lân và kali.

- Đất mặn:

Với diện tích 25.559 ha, chiếm khoảng 12,2% diện tích tự nhiên. Phân bố tập

trung ở huyện Cần Giờ.

Loại đất này hình thành trên trầm tích sông, biển và đầm lầy biển bị xâm nhập mặn hơi chua ở tầng mặt (pH < 5), các tầng ở dưới ít chua đến trung tính, đạt trị số pH 6,5 - 7 ở độ sâu trên 100 cm.

Đất có thành phần cơ giới nặng; Các chỉ tiêu độ phì ở mức trung bình khá, hàm lượng chất hữu cơ giàu (2,5 - 3,5%), hàm lượng đạm tổng số tương đối cao (0,2%). Đất mặn thích hợp cho việc trồng rừng, đặc biệt đối với cây đước, sú, vẹt,...

- Đất phèn:

Chủ yếu là đất phèn tiềm tàng, diện tích khoảng 57.613 ha, chiếm 27,5% diện tích tự nhiên. Phân bố ở các vùng thấp, trũng, tiêu thoát nước kém như: phía Nam huyện Bình Chánh, Nhà Bè, ven sông Đồng Nai, Sài Gòn và phía Bắc huyện Cần Giờ.

Đất phèn được hình thành trên trầm tích đầm lầy biển (đầm mặn). Trong điều kiện yếm khí phèn ở dạng tiềm tàng, trong phẫu diện chỉ có tầng Pyrite. Khi có quá trình thoát thuỷ, tạo ra môi trường oxy hoá, tầng Pyrite chuyển thành tầng Jarosite làm cho đất chua đồng thời giải phóng nhôm gây độc hại cho cây trồng.

Tầng sinh phèn và tầng phèn thường rất nông, nhiều nơi phát hiện ngay ở tầng đất mặt, hàm lượng lưu huỳnh và các độc tố Fe2+, Fe3+, Al3+ rất cao. Nhìn chung đất có độ pH thấp, hàm lượng Cl- và các muối tan rất cao vì đất thường xuyên chịu ảnh hưởng của nước biển làm cho đất phèn trở nên phức tạp và diễn biến nhanh chóng theo chiều hướng bất lợi cho sản xuất cũng như môi trường. Mg2+ và Na2+ chiếm vai trò chính trong thành phần các cation trao đổi.


Đất có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, cùng với sự tích luỹ muối phá vỡ các keo đất làm cho đất dính dẻo khi ướt, nứt nẻ và cứng khi khô. Do đất phèn được hình thành trên trầm tích Holocen, cùng với quá trình trầm tích là quá trình vùi lấp các thân xác thực vật biển trong điều kiện yếm khí nên đất phèn thường rất giầu các hợp chất hữu cơ (5 - 12%).

Các loại đất phèn có tầng sinh phèn sâu, không còn chịu ảnh hưởng của nước biển và thường có nguồn nước tưới. Hiện nay, đất phèn đã được khai thác trồng lúa 2 - 3 vụ, rau màu và các loại cây ăn quả. Còn lại một diện tích lớn các đất phèn có tầng sinh phèn nông, còn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều được sử dụng cho việc trồng và bảo vệ rừng ngập mặn.

- Đất phù sa:

Có diện tích khoảng 26.397 ha, chiếm 12,6% diện tích tự nhiên, trong đó loại đất phù sa ngọt chỉ chiếm khoảng 2,5%. Phân bố chủ yếu ở vùng Nam Bình Chánh và một số nơi ở Củ Chi, Hóc Môn, độ cao khoảng 1,5 m. Các chất dinh dưỡng về mùn, đạm, lân và kali rất giàu. Đây là loại đất tốt, cần thiết phải được cung cấp nước tưới, ưu tiên sản xuất lúa nước 2 - 3 vụ và sử dụng một phần diện tích cho việc trồng cây ăn trái.

- Đất xám:

Có diện tích khoảng 40.434 ha, chiếm khoảng 19,3% diện tích tự nhiên. Phân bố chủ yếu trên vùng đất cao, gò ở huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn, quận Thủ Đức, quận 9 và phía Bắc huyện Bình Chánh.

Đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu hình thành trên mẫu chất phù sa cổ. Tầng đất thường rất dầy, thành phần cơ giới nhẹ. Đất có phản ứng chua; hàm lượng mùn, đạm tầng đất mặt khá nhưng rất nghèo kali do vậy trong sản xuất nông nghiệp phải đầu tư nhiều phân bón.

Loại đất này dễ thoát nước, thuận lợi cho cơ giới hoá và thích hợp với loại cây hàng năm và cây công nghiệp ngắn ngày. Trong sử dụng phải chú ý biện pháp chống xói mòn và rửa trôi, tăng cường bón phân bổ sung dinh dưỡng nhất là phân hữu cơ.

- Đất đỏ vàng:

Có diện tích khoảng 3.143 ha, chiếm 1,5% diện tích tự nhiên. Phân bố trên vùng gò ở huyện Củ Chi và quận Thủ Đức, quận 9.

Đất hình thành trên các sản phẩm phong hoá của các loại đá mẹ và mẫu chất khác nhau. Đặc điểm chung của nhóm đất này là chua, độ no bazơ thấp, khả năng hấp phụ không cao, khoáng sét phổ biến là Kaolinit, axit mùn chủ yếu là fuvic, chất hoà tan dễ bị rửa trôi. Nên ưu tiên sử dụng cho việc trồng các cây như cao su, điều vì có khả năng bảo vệ và cải tạo đất tốt.

f) Các nguồn tài nguyên khác

- Tài nguyên nước: Nước mặt và nước dưới đất

Nước mặt: Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng hạ lưu của hệ sông Đồng Nai - Sài Gòn, giáp với biển Đông, nên nguồn nước ngọt của sông Đồng Nai là nguồn nước ngọt chính với diện tích lưu vực khoảng 45.000 km2, hàng năm cung cấp 15 tỷ m3 nước. Trong thời gian qua, một số các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện được xây dựng chỉ làm thay đổi lượng nước theo mùa nhưng không thay đổi về tổng lượng nói chung.

Ngày đăng: 27/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*