Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm - 2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Xã hội ngày càng phát triển kéo theo rất nhiều sự thay đổi trong đời sống con người, cùng với nó là phát sinh ra nhiều mối nguy hiểm tiềm năng cho sức khỏe tâm trí. Đó là một loạt các trạng thái khác nhau, từ những rối nhiễu tâm trí như lo âu, trầm cảm, ám ảnh hay các chứng hoang tưởng, tâm thần phân liệt, động kinh… Trong đó, trầm cảm là một hiện tượng bệnh lý xuất hiện ngày càng nhiều trong cuộc sống hiện nay.

Trầm cảm ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người: từ nam giới đến phụ nữ, từ trẻ em đến người trưởng thành, người cao tuổi và đặc biệt là sinh viên thì khả năng xuất hiện trầm cảm là tương đối cao vì đây là giai đoạn sinh viên phải thích nghi với môi trường mới, bắt đầu cuộc sống tự lập với nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. Theo tác giả Brice Pith, từ lứa tuổi thanh thiếu niên trầm cảm là chứng bệnh tâm thần phổ biến nhất. Theo nhiều tác giả, trầm cảm chiếm tỉ lệ 3 – 5% dân số [20]. Theo Trần Kim Trang (2012) khi nghiên cứu đề tài “Stress, lo âu và trầm cảm ở sinh viên y khoa”, thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 483 sinh viên năm thứ 2 khoa y và răng hàm mặt Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 6/2011. Sử dụng thang đánh giá DASS -21 đã cho thấy kết quả rằng: tỉ lệ sinh viên bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 71,4%; 28,8%; 22,4%, đa số ở mức độ nhẹ và vừa. 52,8% sinh viên có cùng 3 dạng rối loạn trên. Không có sự khác biệt giữa các mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo nguồn cư trú và giới tính, ngoại trừ trầm cảm - nhất là ở mức độ nặng và rất nặng thì nam nhiều hơn nữ [21].

Rối loạn trầm cảm ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Sự hiểu biết không đầy đủ hoặc nhận thức sai lầm về vấn đề này có thể dẫn đến tình trạng xuất hiện những dấu hiệu trầm cảm hoặc nguy cơ tăng nặng đối với những cá nhân đã có dấu hiệu hoặc nguy cơ trầm cảm từ trước. Việc sinh viên có dấu hiệu trầm cảm nhưng không có hiểu biết về các biện pháp can thiệp mà e ngại, tự mình giải quyết hay cố tình lảng tránh đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì những lí do trên đã thôi thúc tôi tìm hiểu đề tài “Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm”. Tôi hi vọng rằng, qua nghiên cứu này có thể phát hiện được thực trạng mức độ nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm, đồng thời, có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm.

2. Đối tượng nghiên cứu

Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm.

3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm, từ đó góp phần phòng ngừa trầm cảm ở sinh viên nói riêng và cộng đồng nói chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm

Nghiên cứu thực tiễn

- Điều tra nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm.

- So sánh nhận thức về rối loạn trầm cảm của sinh viên các khoa.

Đề xuất những kiến nghị về các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và phòng ngừa trầm cảm cho sinh viên

5. Khách thể nghiên cứu

600 sinh viên năm thứ 4 đang học tại các trường đại học trên địa bàn thủ đô Hà Nội

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1. Giới hạn khách thể nghiên cứu

100 sinh viên khoa Kế toán – Đại học Kinh tế Quốc Dân

100 sinh viên khoa Cơ khí – Đại học Bách Khoa Hà Nội

100 sinh viên khoa Y Đa khoa – Đại học Y Hà Nội

100 sinh viên khoa Tâm lý – giáo dục học – Học viện Quản lý giáo dục

100 sinh viên khoa Tâm lý học và 100 sinh viên khoa Lịch sử – Đại học KHXH & NV – Đại học QGHN

6.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Hà Nội

6.3. Giới hạn nội dung nghiên cứu

Nhận thức về biểu hiện của rối loạn trầm cảm

Nhận thức về hậu quả của rối loạn trầm cảm

Nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm

Nhận thức về điều trị bệnh trầm cảm

Nhận thức của sinh viên về cách phòng ngừa trầm cảm

7. Giả thuyết nghiên cứu

Nhận thức của của sinh viên về rối loạn trầm cảm còn hạn chế, cụ thể: sinh viên chưa có hiểu biết đầy đủ về các nguy cơ, biểu hiện, hậu quả, các yếu tố ảnh hưởng, cách điều trị và cách thức phòng ngừa rối loạn trầm cảm.

Sinh viên các khoa như tâm lý học, tâm lý giáo dục học có nhận thức đầy đủ hơn về rối loạn trầm cảm so với những sinh viên các ngành khác.

8. Phương pháp nghiên cứu

8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

8.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

8.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm và nhận thức về trầm cảm

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1.1. Các lý thuyết về trầm cảm

Thuyết phân tâm học về trầm cảm

S.Freud cho rằng trầm cảm là một quá trình tương tự như đau buồn. Khi quá đau buồn, cá nhân có thể thoái lui về giai đoạn môi miệng của sự phát triển, như là một cơ chế phòng vệ chống lại những nỗi buồn quá lớn. Điều này dẫn cá nhân đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào người mà họ yêu quý; hậu quả là, họ đồng nhất mình với những người đó và qua đó, một cách tượng trưng, họ giành lại được mối quan hệ đã mất. Tiếp theo, qua một quá trình gọi là tiếp nhận (introjectinon), cá nhân hướng những cảm nhận về người họ yêu quý đến chính bản thân. Những cảm xúc này có thể bao gồm cả sự giận dữ, kết quả của các xung đột không giải quyết được. Phản ứng như thế, nhìn chung, chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng có thể trở thành bệnh lí nếu cá nhân tiếp tục trong một thời gian dài, dẫn đến tự căm ghét bản thân và trầm cảm.

Freud cho rằng trầm cảm “bình thường” là kết quả của những mất mát có tính tượng trưng hay tưởng tượng. Theo cách nào đó, sự việc nghiêm trọng khi nó lấy mất của cá nhân tình yêu hoặc sự đánh giá của những người quan trọng, và lẽ ra phải hướng cảm xúc tiêu cực về người từ chối mình thì cá nhân lại hướng những cảm xúc đó về mình và tiếp nhận chúng. Những người dễ bị trầm cảm nhất, là những người không thể thỏa mãn quá nhiều, mà cũng không thể thỏa mãn ít được. Những người như thế trong suốt cuộc đời mình, sẽ còn phụ thuộc vào tình yêu thương và sự chấp nhận của người khác, họ còn rất nhạy cảm với những sự kiện gây ra lo lắng hoặc những trải nghiệm mất mát [10, tr.245-246].

Thuyết hành vi về trầm cảm

Các lí thuyết hành vi về trầm cảm tập trung chủ yếu vào các quá trình điều kiện hóa quan sát được. Ví dụ như Lewinsohn và cộng sự (1979), đã chỉ ra rằng trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp các củng cố xã hội tích cực. Điều này dẫn đến khí sắc chán nản và thu hẹp những hành vi mang xu hướng được xã hội tán thưởng. Cá nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã hội, một hành động mà trên thực tế, có thể làm tăng tạm thời các liên hệ xã hội bởi họ có thể có được sự cảm tình chú ý nhờ hành vi của mình. Điều này có thể tạo ra củng cố khác, được biết đến như là lợi ích thứ cấp, mà trong đó cá nhân được tán hưởng nhờ những hành vi có trầm cảm của mình. Tuy nhiên, giai đoạn này lại thường đi cùng với sự thu hẹp về chú ý (tần suất tán thưởng có giá trị từ phía môi trường giảm đi) và khí sắc [10, tr.246].

Lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm

Lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm Seligman (1975) cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ việc người ta được học rằng môi trường sinh lí và xã hội nằm ngoài khả năng kiểm soát của cá nhân. Thuật ngữ “learned helplessess” bắt nguồn từ những thực nghiệm trên động vật. Trong những thực nghiệm này, các con vật được đặt ở trong một khu vực mà chúng có thể chạy trốn, chẳng hạn như bằng cách nhảy qua một cái hàng rào thấp. Sau khi trải qua một lần sốc điện nhe, các con thú nhanh chóng học được cách nhảy qua hàng rào để tránh bị sốc. Tuy nhiên, khi người ta ngăn chúng làm điều đó bằng cách nhốt chúng trong một cái cũi, cuối cùng thì chúng không cố tránh sốc điện nữa, ngay cả khi cơ hội trốn thoát luôn rộng mở đối với chúng. Chúng đã học được rằng, chúng không thể tránh được sốc điện, và thể hiện nỗi tuyệt vọng của mình bằng sự trì trệ, không cố gắng thay đổi hoàn cảnh. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng những quy trình khác để tìm ra sự tuyệt vọng do học tập/tập nhiễm ở cả người và động vật. Những người trải qua các thực nghiệm này đều biểu hiện những “triệu chứng” tương tự như các cá nhân bị trầm cảm bệnh lí, bao gồm việc thiếu động cơ hoạt động, bi quan và quá trình tiếp thu bị phá vỡ [10, tr.247].

Thuyết nhận thức của A. Beck về trầm cảm

Kết hợp với những khác biệt của mô hình lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm những người theo trường phái nhận thức đã thay đổi giải thích về trầm cảm của trường phái hành vi, tiêu biểu nhất trong số đó là Beck (1997). Ông đưa ra ý kiến rằng trầm cảm bắt nguồn từ nhận thức sai lệch trước những sự kiện ảnh hưởng đến chúng ta. Trong trầm cảm, Beck gọi đáp ứng tức thời với những sự kiện này là ý nghĩ tiêu cực tự động. Những ý nghĩ này có vẻ tức thời, hợp lý và trên thực tế thường được chấp nhận. Tuy nhiên, một cách có hệ thống, chúng lại giải thích sai các sự kiện và vì thế dẫn đến trầm cảm. Đặc trưng cho kiểu suy nghĩ này là sự khái quát hóa thái quá, sự trừu tượng hóa có chọn lọc và những suy nghĩ không dứt khoát. Những điều này ảnh hưởng đến cái mà Beck gọi là bộ ba nhận thức: niềm tin về bản thân chúng ta, sự kiện hoặc cá nhân khác có ảnh hưởng đến chúng ta và tương lai của chúng ta.

Theo Beck, những suy nghĩ có ý thức của chúng ta bị méo mó bởi các sơ đồ trầm cảm tiềm ẩn. Đó là những niềm tin vô thức về bản thân và thế giới, chúng tác động đến suy nghĩ ý thức và được hình thành trong suốt tuổi thơ mỗi người. Các sự kiện tiêu cực trong tuổi thơ, chẳng hạn như việc bị bố mẹ từ chối, sẽ hình thành nên một sơ đồ nhận thức về bản thân và thế giới xung quanh. Hầu như trong toàn bộ khoảng thời gian này, nếu chúng rõ rệt thì cá nhân bị trầm cảm mạn tính. Tuy nhiên, đến tuổi trưởng thành, khi chúng ta đối mặt với những tình huống gây stress, đặc biệt là những tình huống gợi lại những kỉ niệm không vui trong quá khứ (li dị, chia ly, bị bố mẹ từ chối), thì những sơ đồ tiêu cực tiềm ẩn sẽ được hoạt hóa, tác động đến nhận thức về bề mặt của chúng ta và dẫn đến trầm cảm.

Một số ví dụ của Beck về các lỗi trong nhận thức là nguyên nhân trầm cảm [10, tr.248-251]:


Suy nghĩ tuyệt đối

Kiểu suy nghĩ “tất cả hoặc là không ai cả”: “Nếu tôi không

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm - 2



thành công trong công việc này, tôi là một kẻ hoàn toàn thất bại. Hoặc là tôi trở thành người thầy giáo giỏi nhất, nếu không tôi

chẳng là cái gì hết”.


Khái quát hóa thái quá

Xây dựng kết luận chung tiêu cực về bản chất của một sự kiện ngẫu nhiên đơn lẻ: “Chính thế đấy – Tôi luôn thất bại ở điểm

này. Tôi không thể làm được việc đó”


Cá nhân hóa

Giải thích các sự kiện như là tội lỗi hoặc sự chống đối của cá nhân: “Tại sao họ luôn nhắm và tôi? Mọi chuyện luôn có vẻ như

thế, ngay cả khi tôi chẳng có tội gì”


Kết luận tùy tiện

Tự đưa ra một kết luận trong khi không có chứng cứ đầy đủ cho nó: “Họ không thích tôi. Tôi có thể nói điều đó ngay từ lúc mà

chúng tôi mới gặp nhau”.


Trừu tượng hóa có chọn lọc

Tập trung vào một chi tiết không nổi trội, tách nó ra khỏi bối cảnh: “Tôi nghĩ rằng bài diễn thuyết của tôi rất hay. Nhưng anh sinh viên đó lại bỏ đi từ rất sớm, có thể anh ta không thích nó. Có lẽ những người khác cũng thế nhưng họ đã không thể hiện

điều đó ra mà thôi”

Thuyết liên cá nhân về trầm cảm

Thuyết liên cá nhân đề cập đến những khía cạnh hành vi của người bị trầm cảm, bao gồm trong đó tổng thể mối quan hệ giữa người trầm cảm với người khác. Những người trầm cảm có mạng lưới giao tiếp xã hội thưa thớt và coi chúng như là nguồn nâng đỡ. Sự nâng đỡ xã hội giảm sút có thể làm yếu đi năng lực của cá nhân trong việc phản ứng với những sự kiện tiêu cực trong cuộc sống, và làm cho cá nhân dễ cảm ứng với trầm cảm (Billings, Cronkite và Moos 1983).

Người trầm cảm cũng có thể nhận được những phản ứng tiêu cực từ phía người khác (Coyne, 1976), khả năng này đã được nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau, từ các cuộc nói chuyện hướng dẫn qua điện thoại với bệnh nhân trầm cảm, đến việc nghe băng ghi âm của họ, và thậm chí cả việc tiếp xúc trực tiếp. Dữ kiện thu được đã chỉ ra rằng, hành vi của người trầm cảm nhận được sự hắt hủi từ phía những người xung quanh.

Thuyết liên cá nhân đã không vạch ra nguyên nhân sâu xa dẫn đến trầm cảm, nhưng một đóng góp rất to lớn của học thuyết này đã chỉ ra những hành vi kém thích nghi của người bệnh đóng vai trò duy trì bệnh và mối quan hệ của người bệnh với những người xung quanh. Điều này sẽ định hướng cho các nhà trị liệu tập trung vào xây dựng những mẫu hành vi mới cho người bệnh và xây dựng một mạng lưới giúp đỡ người bệnh từ những người thân xung quanh.

1.1.1.2. Các nghiên cứu cụ thể về trầm cảm và nhận thức về trầm cảm

Trầm cảm là một rối loạn thường gặp trên thế giới bất kể sự khác biệt về nhóm tuổi, văn hóa, tầng lớp xã hội ở cả nam và nữ, trẻ và già, song tùy từng độ tuổi, từng giới mà tỉ lệ mắc khác nhau.

Theo tác giả Brice Pith từ lứa tuổi thanh thiếu niên trầm cảm là chứng bệnh tâm thần phổ biến nhất. Theo nhiều tác giả, trầm cảm chiếm tỉ lệ 3 – 5% dân số [20]. N.A.Satorious và A.S.Jablenski 1984 đã công bố có khoảng 3 – 5% dân số trên hành tinh chúng ta tức là gần 200 triệu người, đã lâm vào trạng thái trầm cảm rõ rệt. Nhiều nghiên cứu mới ở Anh, Pháp, Mỹ và khu vực Châu Âu đã nêu tỉ lệ mắc mới trầm cảm từ 15 – 24% [14, tr.63 – 70].

Có khoảng 18.800.000 người Mỹ trưởng thành, chiếm khoảng 9,5% độ tuổi dân số Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên, bị rối loạn trầm cảm trong một năm, trong đó tỉ lệ gặp ở phụ nữ cao gấp gần 2 lần nam giới (12% so với 6,6%). Năm 1997 có 30.535 người chết vì tự tử tại Hoa Kỳ. Tỉ lệ tự tử ở người trẻ gia tăng đáng kể trong vài thập kỉ qua. Trong năm 1997, tự tử là nguyên nhân thứ 3 trong số những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở lứa tuổi từ 15 đến 24, khoảng 19.100.000 người Mỹ trưởng thành tuổi từ 18 đến 54, chiếm 13,3% người dân trong nhóm tuổi này có một hội chứng rối loạn lo âu. Rối loạn lo âu thường xuyên xảy ra cùng với các rối loạn trầm cảm, rối loạn ăn uống hoặc lạm dụng thuốc [20].

Trong những năm gần đây rối nhiễu lo âu - trầm cảm tăng lên một cách nhanh chóng đồng thời lứa tuổi khởi phát lại giảm xuống (Klerman, 1998). Cũng đã có nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn trầm cảm thường bắt đầu ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Theo kết quả nghiên cứu của Uỷ ban y tế và sức khỏe quốc gia của Úc thì có từ 1 - 3 % thanh thiếu niên rối loạn trầm cảm cho đến 18 tuổi. Hơn nữa có khoảng 15 - 40% thanh thiếu niên có dấu hiệu trầm cảm và trầm cảm nhẹ. Ở các em nữ tỉ lệ trầm cảm đặc biệt cao từ 7 - 13% (Angold & Rutter, 1992; Kaskani, 1987).

Trong đề tài khoa học Thiết lập mạng lưới phòng ngừa chứng trầm cảm và tự sát ở các thanh thiếu niên thuộc tỉnh Gers - Cộng hòa Pháp của tác giả Dejean - Dupebe Chantal, thì các cứ liệu thống kê về sức khỏe tâm trí ở Pháp ghi nhận rằng từ nhiều năm nay, có sự gia tăng của các mưu toan tự sát và tự sát là nguyên nhân thứ 2 của tử vong ở thanh thiếu niên 15 - 25 tuổi, sau các tai nạn giao thông.

1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam

Theo những tài liệu mà chúng tôi đã tìm hiểu thì cho đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề nhận thức của sinh viên về trầm cảm mà chỉ có những công trình đi sâu vào nghiên cứu mức độ rối loạn trầm cảm ở các lứa tuổi khác nhau. Nghiên cứu “Kết quả chẩn đoán trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Hà Nội” của Nguyễn Bá Đạt (2003) thì trong số những học sinh trung học phổ thông gặp khó khăn học đường có một số bộ phận học sinh rơi vào trạng thái trầm cảm - rối loạn cảm xúc. Kết quả đánh giá tâm lý của học sinh thông qua trắc nghiệm RADS và trắc nghiệm BDI - II cho thấy 6,7% học sinh tham gia có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ

nhẹ; 1,6% có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ vừa và 0,5% có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ nặng. Trung bình chung có 8,8% học sinh có dấu hiệu trầm cảm [4].

Theo tác giả Hồ Ngọc Quỳnh (2009) nghiên cứu trầm cảm ở sinh viên điều dưỡng và y tế công cộng tại TP Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ mắc trầm cảm ở sinh viên y tế công cộng lên tới 17,6%; ở sinh viên điều dưỡng là 16,5% và liên quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của cha mẹ, gắn kết nhà trường, thành tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận thức bản thân [12, tr.95-100].

Một kết quả nghiên cứu của Lê Minh Thuận (2011) đã cho thấy trong 252 sinh viên, tỉ lệ mức độ rất nặng - lo âu khoảng 7% là nữ và 4% là nam (chung là 11%), trầm cảm là 5% (nữ). Mức độ nặng - lo âu là 12%, stress là 2% và trầm cảm 2%. Có sự tương quan cao giữa các yếu tố stress, trầm cảm và lo âu của sinh viên, giữa lo âu và stress là r = 0,7, giữa lo âu và trầm cảm là r = 0,73, giữa stress và trầm cảm là r = 0,65. Yếu tố rối nhiễu tâm lý: lo âu, trầm cảm, stress có mối liện hệ đáng tin cậy với Hy vọng (r = -0,83, -0,85, -0,82), cho thấy yếu tố hy vọng là yếu tố tăng cường bảo vệ. Đây là mối liên hệ nghịch (r<0), tính hy vọng ở sinh viên cao thì giảm đi các rối nhiễu tâm lý và ngược lại rối nhiễu tâm lý tăng thì làm giảm hy vọng. Phương trình hồi quy đa biến được xác định là Hy vọng = 47,81 – 0,37 (lo âu) – 0,51 (stress) – 0,33 (trầm cảm), giải thích được 88,2% (R2=88,2). Không có liên hệ chặt chẽ nào giữa các yếu tố khác với rối nhiễu tâm lý. [15]

1.2. Một số vấn đề lý luận nhận thức về trầm cảm

1.2.1. Lý luận về nhận thức

1.2.1.1. Khái niệm về nhận thức

Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nhận thức:

Nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt động con người nhận thức được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với chính bản thân mình.

Vì vậy có thể nói, hoạt động nhận thức có vai trò đặc biệt quan trọng, nhờ có nhận thức mà con người làm chủ được tự nhiên, làm chủ được xã hội và làm chủ được chính bản thân mình. Quan niệm này đã khẳng định, nhận thức của con người là một hoạt động và hoạt động này diễn ra thường xuyên liên tục trong đời sống, giúp con người có thể tồn tại và phát triển.

Theo quan điểm của K.K.Platônôp - nhà Tâm lý học Liên Xô: “Nhận thức là quá trình thu nhận những tri thức chân thực trong thế giới khách quan trong quá trình hoạt động xã hội”. Nói đến nhận thức tức là nói đến tính tích cực của con người, nói đến khả năng phản ánh những thuộc tính của sự vật, hiện tượng, mối quan hệ của chúng trong hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Con người sống trong những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội nhất định, đòi hỏi phải nhận thức được các quy luật của tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ cho mục đích của con người.

Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê: “Nhận thức là một quá trình hoặc kết quả của sự phản ánh và tái hiện hiện thực và trong tư duy, là quá trình con người nhận biết, hiểu biết về

thế giới quan hoặc kết quả của quá trình đó” [11]. Trong định nghĩa này, tác giả đã nhấn mạnh, nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan.

Trong từ điển Tâm lý học, tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: “Nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiếp gần đến chân lý nhưng không bao giờ ngừng ở trình độ nào vì không bao giờ nắm bắt hết được toàn bộ hiện thực, phải thấy dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực để đi hết bước này đến bước khác”. Trong định nghĩa này Nguyễn Khắc Viện khẳng định nhận thức là một quá trình liên tục không có điểm dừng lại, không có hồi kết mà chỉ có những kết quả tạm chấp nhận ở thời điểm hiện tại.

1.2.1.2. Các quá trình của nhận thức

Trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ trừu tượng đến cụ thể. Hoạt động nhận thức gồm quá trình khác nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng… Những quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau như: hình ảnh, biểu tượng, khái niệm. Có thể chia hoạt động nhận thức thành hai mức độ, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

Nhận thức cảm tính

Qúa trình nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng của con người, sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh trực quan, cụ thể về thế giới. Cảm giác là cơ sở của hoạt động tâm lý. Sự nhận thức hiện thực xung quanh bắt đầu từ cảm giác.

“Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người” [16, tr.105]

Nhận thức lý tính

Nhận thức lý tính phản ánh những thuộc tính bên trong những mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Do đó, nhận thức lý tính có vai trò quan trọng trong việc hiểu biết bản chất những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng tạo điều kiện để con người là chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Phương thức phản ánh của nhận thức lý tính là phản ánh một cách gián tiếp. Đó không chỉ là sự phản ánh hiện tại mà còn cả quá khứ và tương lai.

Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có tính quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. V.I. Lênin đã từng kết luận rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [1, tr.114].

1.2.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và các hiện tượng tâm lý khác có liên quan

Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm

Giữa phản ánh nhận thức và phản ánh xúc cảm, tình cảm có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Phản ánh nhận thức là tiền đề cho phản ánh xúc cảm, tình cảm. Ngược lại thì xúc cảm,

Ngày đăng: 17/05/2024