Cơ Sở Vật Chất Kĩ Thuật Của Trường Học

Trên thế giới người ta thường dùng thuật ngữ “program” khi đề cập đến chương trình giáo dục, đào tạo nói chung. Trong khi đó nội hàm khái niệm của chương trình giảng dạy hay chương trình học hẹp hơn, thường được dùng với thuật ngữ “Curriculum”. Chương trình đào tạo thay đổi theo sự phát triển của xã hội và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố (người học, người dạy, phụ huynh, người tuyển dụng...). Vì thế, khái niệm về chương trình đào tạo trở nên phức tạp hơn, tùy theo cách lý giải người ta có các cách hiểu khác nhau.

Theo từ điển tiếng việt “Chương trình đào tạo là toàn bộ nội dung học tập, giảng dạy vắn tắt, được quy định chính thức cho từng môn, từng lớp, từng giờ hoặc từng bậc học”. Chương trình đào tạo là văn kiện do Nhà nước công bố, trong đó quy định một cách cụ thể vị trí, yêu cầu của bộ môn, hệ thống nội dung của môn học, số học phần từng chương trình nói riêng.

Theo Tim Wenting (1993) chương trình đào tạo “Là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo, bản thiết kế tổng thể đó nêu nội dung toàn bộ cần đào tạo, chỉ ra những gì ta có thể trông đợi từ người học sau một khóa học; nó phác họa ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung chương trình đào tạo; nó cũng cho biết phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sếp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ” [14,tr31].

Tác giả Tyller (1994) đã nêu lên bốn thành tố của chương trình đào tạo đó là: Mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá kết quả học tập [13,tr47].

Từ việc tham khảo các định nghĩa về chương trình đào tạo của các tác giả nêu trên, theo chúng tôi: Chương trình đào tạo là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu

học tập mà người học cần đạt được. Đồng thời xác định rõ mục đích, mức độ nội

dung học tập, các phương pháp, phương tiện, cách thức tổ chức học tập, cách thức đánh giá kết quả học tập...nhằm đạt được mục tiêu học tập đã đề ra.

Cấu trúc của chương trình đạo tạo đại học

Cấu trúc của chương trình đào tạo bao gồm những nội dung về hiểu biết, về năng lực và phẩm chất, mà mục tiêu giáo dục đã quy định. Trong đó, bao gồm nội dung lý

thuyết, nội dung thực hành, nội dung về chuyên môn, nội dung về chính trị, nội dung về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, về khoa học xã hội.

Chương trình đào tạo thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, điều kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực tập; kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình.

+ Mục tiêu đào tạo

Thuật ngữ mục tiêu được giải nghĩa là: “đích đặt ra, cần phải đạt tới, đối với công tác nhiệm vụ”.

Cũng như bất cứ hoạt động xã hội nào, hoạt động đào tạo đều hướng đến mục đích đào tạo nhất định phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội, các ngành sản xuất

dịch vụ, khoa học công nghệ và cá nhân. Đối tượng của hoạt động đào tạo là con

người và do đó mục đích đào tạo chung là hướng đến hình thành và phát triển nhân cách con người, nhân cách nghề nghiệp thích hợp với nhu cầu phát triển trong từng giai đoạn lịch sử của xã hội và từng cá nhân. Trên cơ sở mục tiêu đào tạo chung hoặc mục tiêu đào tạo tổng quát sẽ hình thành các mục tiêu đào tạo cụ thể của từng bậc học, loại hình trường và từng ngành nghề đào tạo, từng bài giảng lý thuyết và thực hành.

Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thức và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.

Mô hình cấu trúc của mục tiêu đào tạo:

Mục tiêu hoạt động của một bài giảng hoặc một hoạt động học tập được xác định với 3 thành tố cơ bản: kiến thức, kỹ năng, thái độ

Quá trình đạo tạo là quá trình chuyển hóa mục tiêu thiết kế thành hiện thực và đưa đến kết quả, chất lượng cao.

Mục tiêu đào tạo

quá trình đào tạo

chất lượng đào tạo


Về kiến thức: Là những thông tin, sự kiện, quy luật thuộc lĩnh vực chúng ta được học và nghiên cứu từ trường học được tích lũy từ thực tế, từ các nguồn tư liệu hoặc từ các chuyên gia có kinh nghiệm .

Biết: nhận biết các tri thức thông thường qua quá trình tri giác, hình thành các biểu

tượng, các khái niệm ban đầu, sơ khai, thụ

động. Ví dụ như mô tả

được một hiện

tượng hoặc phát biểu được một định nghĩa khái niệm.

Hiểu: hiểu được các tư liệu đã được học, có khả năng diễn giải, mô tỏ, tóm tắt thông tin thu nhận được. Nắm được bản chất mối quan hệ nội hàm và ngoại diên của các khái niệm, hệ thống tri thức.

Vận dụng: có khả năng vận dụng tri thức để giải quyết một nhiệm vụ nhận thức hoặc thực tế. Biến tri thức bên ngoài thành kiến thức bên trong của mỗi cá nhân.

Phân tích: Nhận thức ở mức độ này đòi hỏi sinh viên biết chia nhỏ một tổng thể thành các bộ phận và phân biệt được các yếu tố, mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, và nguyên lý tổ chức các yếu tố. Thí dụ: khi đưa cho sinh viên một văn bản để đọc, sinh viên phải phân biệt được đâu là sự kiện, đâu là ý kiến của người viết.

Tổng hợp: Nhận thức ở mức độ này liên quan tới việc sắp xếp các bộ phận với

nhau để tạo ra một dạng mới của chính thể, một cuộc giao tiếp trọn vẹn, một kế

hoạch hành động hoặc một hệ thống các mối liên hệ trừu tượng. Thí dụ, khi nhận một

báo cáo về

ô nhiễm môi trường, sinh viên có thể đề

xuất những cách thức để

thử

nghiệm các giả thuyết khác nhau.

Đánh giá: Đây là mức cao nhất của thang bậc nhận thức có ngụ ý tới một sự phức tạp nhất. Mục tiêu ở mức này là nhằm sự đánh giá tới những chứng cứ nội tại hay sự kiên định lôgic và những chứng cứ ngoại tại hay sự kiên định với những sự kiện phát triển ở một nơi khác. Thí dụ, sinh viên đánh giá được sự sai lầm trong một lập luận nào đó.

Sáng tạo: sáng tạo ra những giá trị mới trên cơ sở các kiến thức đã tiếp thu được Về kỹ năng: Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về

một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích các hiện tượng, các sự kiện, các vấn để trong thực tiễn cuộc sống.

Kỹ năng được phân thành 5 cấp độ từ thấp đến cao. Bắt chước: quan sát và cố gắng lập lại một kỹ năng nào đó. Thao tác: hoàn thành một kỹ năng nào đó theo chỉ dẫn không còn là bắt chước máy móc. Chuẩn hóa: lập lại kỹ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn, thường thực hiện một cách độc lập không phải hướng dẫn. Phối hợp: kết hợp được nhiều kỹ năng theo thứ tự xác định một cách nhịp nhàng và ổn định. Tự động hóa: hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng và trở thành tự nhiên, không đòi hỏi một sự gắng sức về thể lực và trí tuệ.

Về thái độ: Là cách nhìn nhận về công việc, về nhiệm vụ, về đồng nghiệp và về cộng đồng. Thái độ chi phối cách ứng xử, hành vi và tinh thần trách nhiệm.

Theo Bloom, thái độ được phân thành 5 cấp độ: Chấp nhận: chấp nhận tham gia một cách thụ động vào một số sự kiện. Ví dụ như chăm chú nghe giảng bài, lắng nghe người khác phát biểu trong các cuộc thảo luận nhóm. Đáp ứng: tuân thủ theo hay phản ứng với một thái độ đã có thể thấy trước đối với các sự kiện hay tác nhân kích thích. Ví dụ như thể hiện sự quan tâm chú ý, sẵn sàng trao đổi ý kiến khi có tình huống phù hợp. Đánh giá: thể hiện một thái độ ổn định với một niềm tin không đổi trong các tình huống mà người đó không bị bắt buộc phải thực hiện hay tuân theo. Ví dụ như tự giác

tuân thủ

nội quy phòng thí nghiệm ngay cả

khi không có cán bộ

quản lý phòng thí

nghiệm. Ý thức tổ chức: cam kết thực hiện, thể hiện bằng một thái độ kiên định. Biểu thị tính cách: toàn bộ cách xử sự ổn định với các giá trị đã trở thành nội tại.

Mục tiêu đào tạo được định hướng theo quan điểm của con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động giáo dục hướng đến yêu cầu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu giáo dục là cơ sở định hướng cho toàn bộ hoạt động tổ chức và quản lý đào tạo ở mọi loại hình và phương thức đào tạo. Đồng thời là cơ sở để thiết kế nội dung chương trình cho các

ngành nghề cụ thể, phù hợp với từng loại hình trường và hệ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu đào tạo là chuẩn đánh giá toàn bộ quá trình tổ chức đào tạo ở các mức độ khác nhau.



Nhận thức

Bậc 1: Biết

Bậc 2: Hiểu

Bậc 3: Vận dụng

Bậc 4: Phân tích/tổng hợp Bậc 5: Đánh giá

Bậc 6: Sáng tạo


Kỹ năng

Bậc 1: Bắt chước Bậc 2: Thao tác Bậc 3: Chuẩn hóa Bậc 4: Phối hợp

Bậc 5: Tự động hóa


Thái độ

Bậc 1: Chấp nhận Bậc 2: Đáp ứng Bậc 3: Đánh giá

Bậc 4: Ý thức tổ chức

Bậc 5: Biểu thị tính cách

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Đánh giá của sinh viên về hoạt động đào tạo của trường đại học Sài Gòn hiện nay - 4


+ Nội dung đào tạo

Nội dung đào tạo theo điều 40 Luật giáo dục: Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện thực và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghê thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ phận khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc; tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới. Đào tạo trình độ đại học phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn tương đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn

Nội dung đào tạo cơ bản được phản ánh qua các chương trình khung. Đối với mỗi nội dung chương trình đào tạo ở mỗi khoa sẽ có những yêu cầu về kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên môn nhất định.

­ Kiến thức giáo dục đại cương: là kiến thức của những môn khoa học cơ bản vừa có tính chất đại cương của bậc đại học vừa có tính chất nền tảng cho việc đào tạo chuyên ngành. Phần kiến thức này chủ yếu được giảng dạy ở ba học kỳ đầu của khóa học.

­ Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp: là kiến thức của những môn khoa học chuyên ngành, trang bị cho sinh viên những kiến thức, kỹ năng của một ngành đào tạo mà họ đã chọn để đạt trình độ.

Nội dung đào tạo còn thể hiện qua kết cấu thời lượng của từng nhóm kiến thức, thời lượng của từng học phần và kết cấu lý thuyết, thực hành. Thời gian thực tập của từng ngành.

+ Phương thức đào tạo

Phương thức đào tạo của trường đại học Sài Gòn theo hệ thống tín chỉ

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC) là phương thức đào tạo trong đó người học được cấp bằng sau khi tích lũy đủ các kiến thức cần thiết. Các hình thức tích lũy TC là: Học trên lớp; Thực hành, thực tập và Tự học.

Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 ­ 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 ­ 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 ­ 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.

Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Một tiếng học được tính bằng 50 phút.

Giờ học tín chỉ là một trong các giá trị sau: 1 tiết học trên lớp và 2 tiết chuẩn bị bài/tuần; 2 tiết thực hành và 1 tiết chuẩn bị bài/tuần; 3 tiết tự học, tự nghiên cứu/tuần

Tùy theo mục tiêu và nội dung bài học, hình thức tổ chức dạy học, giờ học tín chỉ có thể thay đổi, song thời gian tuyệt đối cho 1 giờ tín chỉ không nhỏ hơn 3, trong đó giờ lý thuyết, giờ thực hành, giờ thảo luận…được thể hiện cụ thể trong thời khóa biểu của trường.

Khối lượng của mỗi chương trình không dưới 180 tín chỉ đối với khóa học địa học 6 năm, 150 tín chỉ đối với khóa học đại học 5 năm, 120 tín chỉ đối với khóa học đại học 4 năm, 90 tín chỉ đối với khóa học cao đẳng 3 năm, 60 tín chỉ đối với khóa học cao đăng 2 năm.

1.2.2 Đội ngũ giảng viên.

GV là nhân tố được đề cập nhiều nhất trong các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. GV là người truyền đạt, cung cấp cho SV những kiến thức, phương pháp, kĩ năng, những kinh nghiệm trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống. Giảng viên có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng phát triển, tạo động lực học tập và thúc đẩy sự tiến bộ của sinh viên. Chính GV sẽ là người tạo cho SV niềm say mê, yêu thích môn học qua những tiết dạy, qua những câu chuyện thực tế để SV tìm được sự đồng cảm từ đó sẽ cố gắng phấn đấu trong học tập hơn. Khi SV ra trường có chất lượng thì danh tiếng của trường cũng được nâng cao hơn. Chất lượng giáo viên là nhân tố quyết định thành bại của giáo dục. Giảng viên được coi như yếu tố then chốt trong những cải cách, đổi mới của bộ giáo dục trong những chương trình đào tạo mà trong thời gian tới Bộ sẽ tiến hành. Không có thầy giỏi về năng lực chuyên

môn và phẩm chất đạo đức tốt thì không thể có nền giáo dục chất lượng tốt cũng

không thể cho ra trường một thế hệ SV có chất lượng cao. Một ngôi trường không nằm trong top đầu nhưng nếu có đội ngũ giảng viên có chất lượng tốt, môi trường học tập thân thiện thì vẫn có nhiều người theo học. Từ đó có thể thấy GV là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành hoạt động đào tạo của trường và có vai trò quan trọng không kém các yếu tố khác.

1.2.3 Sinh viên

Sinh viên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, là tương lai của sự phát triển đất nước, sinh viên mang trong mình những đặc điểm chung, đa dạng của thế hệ đang lớn lên. Bởi vậy trong những chặng đường phát triển của lịch sử nhân loại, sinh viên đã được các quốc gia dân tộc coi là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài.

“Sinh viên” là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La­tinh: “student” – dùng để chỉ những người đang học tập ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là sự phát triển của khả năng tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức, sự đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí cuả mình trong cuộc sống. Tự ý thức là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu của xã hội. SV là lực lượng đông đảo trong trường, dựa trên những kiến thức, kỹ năng được GV cung cấp SV sẽ tìm tỏi, khám phá sáng tạo ra những cái mới, những cái hay từ những kiến thức gốc ban đầu, từ đó khẳng định bản thân mình trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống.

Tất cả hoạt động đào tạo của nhà trường phần lớn đều hướng đến lợi ích của SV, nên SV có vai trò quan trọng trong việc quyết định đến chương trình đào tạo, các hoạt động tổ chức ngoại khóa, thể dục thể thao, hội thảo, hay những chính sách về đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật. Như chất lượng đầu vào của SV cao thì chương trình đào tạo sẽ thiết kế theo hướng yêu cầu, đòi hỏi SV phải tự mình tìm hiểu tìm tòi kiếm thức, tự nghiên cứu tài liệu cao hơn so với chương trình đào tạo của những trường tuyển sinh bằng học bạ. SV có số lượng đông thì nhà trường phải sếp xếp bố trí SV ở các lớp hợp lý, đảm bảo cho SV có được không giang học tập thoải mái. Kết quả học tập của SV cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, hiệu quả đào tạo của một trường khi lực lượng này bước vào thì trường lao động. Nếu SV sau khi ra trường có kiến thức cơ bản vững vàng, kiến thức chuyên môn sâu rộng, biết ứng dụng lí luận vào thực tiễn thì sẽ đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, nhanh chóng tìm được một công việc phù hợp với bản thân và chất lượng của cơ sở đào tạo người lao động này cũng được khẳng định, từ đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo của cơ sở này.

1.2.4 Cơ sở vật chất kĩ thuật của trường học

CSVC và PTKTGD là hệ thống các phương tiện vật chất được huy động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính GD khác để đạt được mục đích giáo dục.

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 22/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí