Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lí Đội Ngũ Giáo Viên Mầm Non Theo Chuẩn Nghề Nghiệp


xuyên, chuyên sâu nhằm đảm bảo cho GVMN phát triển năng lực chuyên môn nghiệp vụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ CSGD trẻ.

Đào tạo ban đầu tức là giai đoạn giáo sinh đang học ở trường sư phạm. Ở giai đoạn này người GV (giáo sinh) được “hình thành và phát triển khuynh hướng, năng lực sư phạm và tính cách của người GV tương lai. Đó là thời kỳ nắm vững kiến thức khoa học, rèn luyện kĩ năng sư phạm, hình thành thế giới quan và niềm tin nghề GVMN. Khi học ở các trường sư phạm GVMN bước đầu đã được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ của nghề GVMN, bên cạnh đó việc tự bồi dưỡng của các giáo sinh khi được đào tạo tại các trường sư phạm đòi hỏi phải thường xuyên, liên tục. Mỗi giáo sinh phải cố gắng để phát triển một cách có hệ thống các năng lực sư phạm bằng con đường tự giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt học tập và rèn luyện để mục tiêu cuối cùng đạt được có thể đáp ứng được yêu cầu thực tế khi ra trường để không bị khập khiễng, hẫng hụt giữa chuẩn đào tạo và CNN.

Quá trình đào tạo ở đây còn phải mang tính liên tục và thường xuyên, có sự gắn kết chặt chẽ từ khi ra trường cho đến khi hành nghề ở các trường mầm non. Trong xu thế chuẩn hóa GD, hiện đại hóa và toàn cầu hóa thì yêu cầu của CNN GVMN ngày càng cao để GVMN đáp ứng được những thay đổi của thực tiễn của xã hội. Theo Luật giáo dục: “Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hóa nhà giáo. Nhà giáo được cử đi học để nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ” (Luật Giáo dục, 2019). Như vậy, với chủ trương này, GVMN có thể tiếp tục quá trình đào tạo nâng cao trình độ như học các khóa đào tạo chính quy tại các trường cao đẳng, đại học hoặc có thể học tại chức, từ xa…tham gia các lớp lấy chứng chỉ như mỹ thuật, âm nhạc nhằm phục vụ nghề GVMN.

Bên cạnh yêu cầu của hoạt động đào tạo, thì hoạt động bồi dưỡng cũng là yêu cầu song hành trong quản lí ĐNGVMN. Theo Từ điển Giáo dục học thì “Bồi dưỡng (nghĩa hẹp) là trang bị thêm các kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể”; “bồi dưỡng là làm tăng thêm trình độ hiện có của ĐNGV (cả phẩm chất, năng lực, sức khỏe) với nhiều hình


thức, mức độ khác nhau. Bồi dưỡng không đòi hỏi chặt chẽ, chính quy như đào tạo và được thực hiện trong thời gian ngắn” (Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Vǎn Tảo và Bùi Hiền, 2001). Như vậy, bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ, năng lực nghề nghiệp của GVMN nhằm đáp ứng tốt CNN. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức, kỹ năng và nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu của nghề nghiệp (UNESCO).

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVMN theo CNN GVMN muốn đạt kết quả phù hợp mục tiêu phát triển đội ngũ GVMN cần thực hiện khảo sát hiện trạng phẩm chất, năng lực GV đã có, xác định những năng lực còn yếu và thiếu của GV so với CNN, xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVMN và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Về nội dung bồi dưỡng đội ngũ GVMN bao gồm các nội dung bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các yêu cầu khác theo CNN. Chú trọng kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, chính trị, đạo đức với chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GVMN. Về bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ theo CNN, chú trọng bồi dưỡng kiến thức cơ bản về GDMN; phương pháp thực hiện nội dung và chương trình GDMN theo hướng đổi mới. Bồi dưỡng cho GVMN những hiểu biết, tri thức chuyên môn trong CS,GD trẻ em mầm non, phương pháp CS,GD, kiểm tra, đánh giá, sử dụng các phương tiện giáo dục theo hướng ‘lấy trẻ làm trung tâm”… Về kỹ năng của GVMN theo CNN, chú trọng các kỹ năng lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ; kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ; kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ theo hướng trải nghiệm, kỹ năng quản lí lớp học, kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tự học tự nghiên cứu; kỹ năng sử dụng tin học, ngoại ngữ; kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, thực hành; kỹ năng hợp tác trong giáo dục…, kỹ năng nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trong GDMN…

CBQL tổ chức, chỉ đạo thực hiện các hình thức bồi dưỡng GVMN theo CNN như bồi dưỡng chuyên đề, sinh hoạt nhóm/tổ chuyên môn thường xuyên, theo nghiên cứu bài học; bồi dưỡng trong trường, cụm trường…; bồi dưỡng tập trung, không tập trung, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ tập thể, cá nhân, trong giờ, ngoài giờ, trao đổi rút kinh nghiệm, hội thảo, tham quan, đi thực tế…. Việc tự học


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.

và tự bồi dưỡng của GVMN theo CNN có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Tự học qua thực hành trải nghiệm thực tế; tham gia các chương trình bồi dưỡng như tập huấn chuyên đề, tập huấn chuyên môn; tham gia các lớp bồi dưỡng chính trị… Tổ chức, chỉ đạo thực hiện các phương pháp bồi dưỡng theo hướng tích cực; kiểm tra, đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVMN và tạo điều kiện cho GVMN tự đào tạo và bồi dưỡng.

Tóm lại, đào tạo và bồi dưỡng GV là hoạt động để bổ sung, cập nhật kiến thức, kĩ năng còn thiếu hoặc yếu về các lĩnh vực của khoa học và giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ GVMN để đáp ứng CNN GVMN. Ngoài ý nghĩa trên, việc bồi dưỡng GV tức là một bước chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết giúp GV có thể tiếp tục được đào tạo để nâng cao trình độ. ĐT-BD giáo viên đáp ứng chuẩn nghề nghiệp GVMN là một quá trình tiếp tục và liên hoàn dẫn đến sự phát triển năng lực GV thực hiện làm thỏa mãn sự đòi hỏi của đổi mới chương trình, phương pháp dạy học đạt được kết quả giáo dục theo như các yêu cầu, tiêu chí và chỉ báo ở CNN đặt ra.

Quản lí đội ngũ giáo viên mầm non khu vực miền Trung theo chuẩn nghề nghiệp - 9

d. Đánh giá đội ngũ giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp

Đánh giá ĐN GVMN theo CNN là một khâu không thể thiếu được trong quá trình quản lí ĐNGV. Hoạt động đánh giá đội ngũ GVMN thực chất là sự so sánh, đối chiếu có hệ thống giữa kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ GVMN với các tiêu chuẩn nghề nghiệp GVMN đã quy định, qua đó đánh giá đội ngũ GVMN đã đạt ở mức nào so với CNN.

Để đánh giá đội ngũ GVMN theo CNN, CBQL cần có kế hoạch kiểm tra, đánh giá đội ngũ giáo viên mầm non thường xuyên, định kì và đánh giá theo quy định việc thực hiện CNN. Căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí của CNN, CBQL thiết lập nội dung và yêu cầu thực hiện công việc, xác định hình thức, phương pháp, quy trình đánh giá. Từ đó tổ chức đánh giá đội ngũ GVMN theo nội dung và yêu cầu của CNN; thực hiện các hình thức, phương pháp đánh giá đội ngũ GVMN phù hợp, đúng quy định, theo quy trình kiểm tra, đánh giá đội ngũ GVMN theo CNN. Trong quá trình đánh giá phải đo lường việc thực hiện công việc theo các tiêu chí trong tiêu chuẩn, thông tin phản hồi đối với GV và cán bộ quản lí….


Công khai kết quả xếp loại đội ngũ giáo viên trước tập thể nhà trường đảm bảo các nguyên tắc đánh giá GVMN khách quan, thống nhất, phát triển, toàn diện, cụ thể…. Sau khi đánh giá tiến hành khen thưởng, kỷ luật và kịp thời đưa ra những quyết định điều chỉnh sau đánh giá.

Trong kiểm tra, đánh giá GVMN hiện nay, hình thức kiểm tra, đánh giá GV theo CNN GVMN là một cách tiếp cận với phương thức quản lí giáo dục tiên tiến trong xu thế hội nhập và theo yêu cầu đổi mới giáo dục của nước ta hiện nay. Việc đánh giá giáo viên có nhiều hình thức khác nhau như CBQL đánh giá GV; đồng nghiệp đánh giá lẫn nhau; cá nhân tự đánh giá; đánh giá tổng hợp (kết hợp các hình thức trên). Đánh giá GVMN được kết hợp giữa tự đánh giá của GVMN với đánh giá của nhà trường và ý kiến tham gia của tổ chuyên môn, đồng nghiệp. Mặt khác, đánh giá GV theo Chuẩn phải gắn với công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng của GVMN. Chuẩn nghề nghiệp GVMN vừa được ban hành, việc đánh giá GVMN theo Chuẩn cần coi trọng bước tự đánh giá của GV. Sau khi tự đánh giá, từng GV đăng ký tự học tập, tự bồi dưỡng để không ngừng hoàn thiện bản thân trong nghề nghiệp.

Việc lấy CNN làm một trong những căn cứ để đánh giá sự phát triển của ĐNGV chính là giúp GV tự đánh giá về sự phát triển của mình, kết quả đánh giá chính xác sẽ là cơ sở cho mỗi cá nhân có sự tự điều chỉnh bản thân nhằm thích ứng với CNN. Hiệu trưởng các trường mầm non là những người trực tiếp theo giỏi, giám sát ĐNGV vì vậy Hiệu trưởng sẽ là lực lượng đánh giá trực tiếp hiệu suất làm việc của GV có nghĩa là phân tích sản phẩm của hoạt động dạy học, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ; đánh giá năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ; đánh giá tiềm năng và động cơ làm việc của GV. Phòng GD&ĐT sẽ là cơ quan quản lí cuối cùng ở cấp huyện kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển ĐNGV để từ kết quả đó phòng GD&ĐT lại tiếp tục xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ. Việc kiểm tra đánh giá sự phát triển của ĐNGV là việc làm thường xuyên, liên tục của nhà quản lí nhưng thời điểm cuối mỗi năm học chính là lúc có những kết quả chính xác để làm căn cứ xây dựng kế hoạch tiếp theo.

e. Tạo điều kiện, môi trường làm việc cho đội ngũ giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp


Tạo điều kiện, môi trường làm việc là một trong những nội dung quan trọng trong quản lí ĐN GVMN để thúc đẩy GVMN thực hiện nhiệm vụ tốt nhất, phát triển năng lực nghề nghiệp đáp ứng CNN. Điều kiện, môi trường làm việc của đội ngũ GVMN ở cơ sở GDMN được hiểu là những điều kiện, môi trường vật chất và tinh thần của cơ sở, nhà trường mầm non. Tạo môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi cho đội ngũ GVMN để mỗi GVMN phát huy tối đa năng lực cá nhân, mặt khác điều kiện, môi trường làm việc tốt sẽ đòi hỏi GVMN hoàn thiện năng lực cá nhân.

Tạo môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi cho đội ngũ GVMN trước hết là thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lí đối với đội ngũ giáo viên MN. Việc thực hiện các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với GVMN là đảm bảo các quyền lợi theo chế độ chính sách quy định của Nhà nước và của tổ chức cho những người có đóng góp cho xã hội và tổ chức. Chính sách đãi ngộ là toàn bộ những thu nhập, phần thưởng bằng lợi ích vật chất và tinh thần gọi chung là những lợi ích mà cá nhân có được nhờ đóng góp công sức lao động của mình cho tổ chức. Chính sách đãi ngộ tạo môi trường thuận lợi cho việc duy trì và phát triển đội ngũ GVMN, là yếu tố quan trọng giúp GV yên tâm công tác và là động lực thúc đẩy GVMN hoàn thành nhiệm vụ và góp phần nâng cao chất lượng CS,GD trẻ MN.

Trong điều kiện thực tiễn của địa phương, nhà quản lí luôn vận dụng các chính sách kinh tế-xã hội hợp lý để góp phần nâng cao đời sống GVMN, chỉ đạo thực hiện các chế độ, chính sách cho đội ngũ GVMN theo quy định; thực hiện chế độ tăng lương, đề bạt vào các vị trí quan trọng của trường đối với GV giỏi; ban hành các chính sách, đãi ngộ đối với GV dạy vùng sâu, vùng xa, miền núi, GV giỏi. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ GVMN; quy định chế độ tuyên dương, khen thưởng, kỷ luật phù hợp đối với giáo viên; tạo cơ hội cho giáo viên phát huy quyền dân chủ…

Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục cho hoạt động CS,GD trẻ là tạo môi trường vật chất thuận lợi cho đội ngũ GVMN làm việc. Môi trường vật chất thuận lợi là một trong những điều kiện đảm bảo sự yên tâm, tạo động lực cho sự phấn đấu của GVMN. Vì vậy, tạo dựng môi trường vật chất thuận lợi, tạo động lực cho sự phát triển cá nhân là một yêu cầu trong quản lí ĐNGV MN theo CNN.


Xây dựng môi trường làm việc thuận lợi cho GVMN còn là tạo ra hành lang pháp lý để đội ngũ GVMN có thể yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; xây dựng văn hóa nhà trường để mọi thành viên trong trường tin cậy, chia sẻ lẫn nhau, cùng hợp tác để hoàn thành mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong QL đội ngũ GV, phát triển tập thể sư phạm chuẩn mực, đoàn kết, đồng thuận và phát triển tập thể sư phạm trở thành “tổ chức biết học hỏi”. Trong quản lí, phát triển ĐNGV theo CNN, đảm bảo sự đồng thuận là “là xây dựng được tình đoàn kết của GV trong tập thể sư phạm, xây dựng ĐNGV trong nhà trường thành tổ chức biết học hỏi. Xây dựng sự đồng thuận trong ĐNGV về các nội dung như: xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; xây dựng đạo đức nhà giáo tự học và sáng tạo; xây dựng văn hóa nhà trường; sự quan tâm của xã hội với giáo dục; ý thức cạnh tranh thi đua trong giáo dục; xu thế quản lí dân chủ, trật tự, kỷ cương trong nhà trường; cơ hội phát triển của từng cá nhân và của nhà trường…

Môi trường làm việc tích cực trước hết thể hiện ở không khí trong lớp học, trong nhà trường vui tươi, tinh thần thi đua vì sự tiến bộ và hướng đến mục tiêu chung của nhà trường . Tiếp theo là mỗi thành viên trong nhà trường phải cảm thấy thực sự vui vẻ, hài hòa trong môi trường sư phạm thân thiện giữa các mối quan hệ như mối quan hệ giữa GV và trẻ, giữa GV và GV, đồng nghiệp, CBQL cấp trên hay mối quan hệ với cha mẹ trẻ và với các tổ chức bên ngoài nhà trường. Từ những yếu tố đó các thành viên trong nhà trường có trách nhiệm hơn, quan tâm hơn đến tình hình hoạt động của nhà trường, mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược của nhà trường; làm cho các thành viên thấy được sự công bằng và tôn trọng - cảm nhận được vai trò quan trọng của mình trong tập thể đó. Vì vậy, công tác quản lí phát triển ĐNGV đòi hỏi nhà quản lí phải đặt mối quan tâm hàng đầu đến việc xây dựng môi trường làm việc tích cực để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường.


1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí đội ngũ giáo viên mầm non theo chuẩn nghề nghiệp‌

1.5.1. Các yếu tố chủ quan‌

Trong QL ĐN GVMN theo CNN, yếu tố con người (chủ thể QL và đối tượng QL) đóng vai trò quan trọng và được xem là yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến quản lí đội ngũ GVMN theo CNN.

a. Nhận thức, phẩm chất, năng lực của đội ngũ CBQL cơ sở GDMN

Trong phân cấp QL đội ngũ GVMN, CBQL cơ sở GDMN (phòng GD&ĐT, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường MN) là chủ thể QL trực tiếp. Quản lí ĐN GVMN theo CNN đặt ra những yêu cầu cao về nhận thức, phẩm chất, năng lực của các cấp quản lí giáo dục này. Trước hết là nhận thức của CBQL về tầm quan trọng của ĐN GVMN, về các chế độ, chính sách phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GVMN, hiểu biết đúng về toàn bộ quy trình quản lí đội ngũ GVMN từ các khâu quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và tạo điều kiện hỗ trợ cho đội ngũ GVMN trong nhà trường. Đặc biệt CBQL phải nắm vững những yêu cầu của CNN, phân tích các mức độ đạt được CNN của GVMN theo từng giai đoạn phát triển của họ để vận dụng vào quản lí phát triển đội ngũ GVMN. CBQL giáo dục các cấp không chỉ có nhận thức đúng mà cần phải có năng lực quản lí ĐN GVMN. Đặc biệt năng lực của đội ngũ CBQL trường MN trong xu thế đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng càng được khẳng định rõ nét. Họ là người trực tiếp quyết định tầm nhìn, chiến lược phát triển của trường, quản lí hướng dẫn, thúc đẩy, điều chỉnh hoạt động của GV, tạo động lực cho từng GV phấn đấu đạt các mục tiêu của nhà trường MN.

b. Nhận thức, phẩm chất, năng lực của đội ngũ giáo viên cơ sở GDMN

Trong xã hội nhiều biến đổi như hiện nay, tác động từ chủ thể quản lí dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu của đối tượng quản lí. Sự tự ý thức, tự phấn đấu, và phát triển những đặc tính cá nhân của bản thân người GVMN có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả QL chung của nhà trường, trong đó có quản lí ĐNGVMN. Việc tự ý thức, tự phấn đấu giúp cho ĐNGVMN có thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong quan hệ, trong công việc,


trong cuộc sống, giúp cho họ vượt qua được những rào cản, những khó khăn từ môi trường xung quanh. Nhận thức của đội ngũ GVMN về CNN rất quan trọng nhằm định hướng quá trình rèn luyện, phấn đẩu đạt mức độ CNN ngày càng cao. Từ việc nắm vững yêu cầu của CNN, GVMN so sánh, đối chiếu với phẩm chất, năng lực hiện có của bản thân để lập kế hoạch phát triển chuyên môn bản thân. Nếu như đội ngũ GVMN không nhận thức rõ ý nghĩa, nội dung yêu cầu của CNN thì trong hoạt động CS,GD trẻ sẽ hình thành thói quen làm việc tùy tiện, kinh nghiệm dẫn đến chất lượng CS,GD trẻ bị ảnh hưởng. Mặt khác phẩm chất, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ GVMN ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lí ĐN GVMN theo CNN. Nếu đội ngũ GVMN đạt được các yêu cầu của CNN ở mức cao, có nghĩa là họ đã có những phẩm chất và năng lực nghề nghiệp tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động QL của chủ thể quản lí và ngược lại. Như vậy, phẩm chất, năng lực của đội ngũ GVMN gồm phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức, thái độ, trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ...của đội ngũ GVMN có ảnh hưởng rất lớn trong quản lí và phát triển đội ngũ GVMN.

1.5.2. Các yếu tố khách quan‌

a. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương

Các yếu tố tự nhiên như điều kiện địa lý: núi rừng, đồng bằng, hải đảo, đô thị;… có ảnh hưởng đến sự phát triển của GD và công tác quản lí đội ngũ GVMN. Sự phân bố dân cư, phương tiện đi lại, phương tiện sinh hoạt ảnh hưởng đến công tác tuyển dụng và sử dụng đội ngũ GVMN, vì hầu hết mọi người đều có nguyện vọng làm việc ở nơi có điều kiện thuận lợi, ở các đô thị có điều kiện kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy, quản lí đội ngũ GVMN ở những vùng khó khăn về điều kiện địa lý sẽ gặp nhiều trở ngại, hạn chế. Trong thực tế, đội ngũ GVMN ở những vùng khó khăn luôn thiếu và yếu nhưng không có nguồn bổ sung.

Yếu tố kinh tế - xã hội bao gồm dân số, cơ cấu dân số, tổng sản phẩm xã hội, phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập của dân cư; việc làm và cơ cấu việc làm; các quan hệ về kinh tế, chính trị. Tỉ lệ dân số có ảnh hưởng đến sự phát triển GD. Dân số tăng, số HS các cấp học, bậc học sẽ tăng và yêu cầu về trường, lớp đội ngũ GV, CBQL điều tăng. Cơ cấu dân số, sự phân bổ dân cư, phong tục tập quán, truyền

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2024