Năng Lực Dạy Học Của Giáo Viên Theo Chuẩn Nghề Nghiệp Trong Bối Cảnh Đổi Mới Giáo Dục‌

Công cụ

Chủ thể quản lý

Khách thể quản lý

Mục tiêu

Phương pháp


Sơ đồ 1.1. Cấu trúc hệ thống quản lý


Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận chung về quản lý như sau: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có mục đích, có tổ chức, có lựa chọn của chủ thể quản lý đến đối tượng (khách thể) quản lý nhằm giữ cho sự vận hành của tổ chức được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất.

1.2.2. Quản lý giáo dục

Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất’’. Đây là ý kiến được rút ra từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “QLGD là tổ chức các hoạt động dạy học, có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thẻ hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối ấy thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [12].

Tác giả Nguyễn Ngọc Quang lại quan niệm về quản lý giáo dục như sau: “QLGD là hệ thống các tác động có mục đích, có KH hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy - học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mối về chất” [16].

Từ những quan niệm trên cho thấy khi nói đến quản lý giáo dục chứa đựng những nhân tố đặc trưng bản chất sau: Phải có chủ thể quản lý giáo dục. Ở tầm vi mô là quản lý của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường phổ thông. Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội dung, chương trình KH thống nhất từ Trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục đích giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội. Phải có một lực lượng đông đảo những người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Quản lý giáo dục có tính xã hội cao, bởi vậy cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng phục vụ công tác giáo dục.

Tóm lại: Quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý giáo dục trong việc vận hành nguyên lý, phương pháp chung nhất của KH nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học, có KH quá trình dạy và học theo mục tiêu đào tạo.

1.2.3. Năng lực và năng lực dạy học

1.2.3.1. Năng lực

Trong giáo dục, bàn về “năng lực” nhiều các tác giả, các nghiên cứu trên thế giới và trong nước đưa ra định nghĩa năng lực theo những cách hiểu khác nhau.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Năng lực là khả năng đủ để làm tốt công việc” [24]. Các nhà tâm lý học khẳng định: “Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức tạp,

là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm” [23].

Theo Từ điển Giáo dục học: “Năng lực là khả năng được hình thành hoặc phát triển cho phép một con người thành đạt thành công trong một hoạt động thể lực, trí tuệ hoặc nghề nghiệp. Năng lực được thể hiện ở khả năng thi hành một hoạt động , thực hiện một nhiệm vụ” [28].

Có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm, chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên hành động thực hiện ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ năng, chứ không phải làm một cách “máy móc”.

Ở Việt Nam, vấn đề NL cũng được đề cập bởi nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả, ví dụ:

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Năng là đặc điểm tâm lý cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động nhất định nào đó và là điều kiện để thực hiện có kết quả hoạt động đó” [12].

Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền: “Năng lực của cá nhân thể hiện qua hoạt động (có thể quan sát được ở các tình huống, hoàn cảnh khác nhau) và có thể đo lường đánh giá được” [13].

Trên cơ sở các quan điểm về NL của các tác giả trong và ngoài nước, có thể khái quát: Năng lực là khả năng kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức, kỹ năng, thái độ để thực hiện hiệu quả một hoạt động nào đó trong những bối cảnh nhất định.

1.2.3.2. Năng lực dạy học

Năng lực dạy học là khả năng của giáo viên phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của hoạt động dạy học nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực giảng dạy.

Hiện nay ở các nước phát triển GV được định nghĩa là hội tụ của 3 chức năng chính, đó là nhà giáo, nhà khoa học, nhà cung ứng dịch vụ đó cũng là những đặc trưng hết sức cơ bản của GV THPT. Tuy nhiên, theo tôi, đặc trưng lao động của GV THPT là lao động sư phạm, dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với lao động khoa học, hoạt động quản lý.

Theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THPT, NLDH là một trong những tiêu chuẩn của người giáo viên, NLDH là một năng lực tổng hợp của nhiều năng lực và là năng lực quan trọng cần thiết của người giáo viên, là một thành tố của năng lực sư phạm bao gồm: Xây dựng kế hoạch dạy học; Đảm bảo kiến thức môn học; Đảm bảo chương trình môn học; Vận dụng các phương pháp dạy học; Sử dụng các phương tiện dạy học; Xây dựng môi trường học tập; Quản lí hồ sơ dạy học; Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.

Có thể tóm tắt năng lực dạy học của giáo viên THPT theo Chuẩn nghề nghiệp trong bối cảnh đổi mới giáo dục gồm 8 tiêu chí theo bảng sau:

Bảng 1.1. Năng lực dạy học của giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp trong bối cảnh đổi mới giáo dục‌


Năng lực dạy học theo Chuẩn nghề nghiệp

Tiêu chí

Xây dựng kế hoạch dạy học

Đảm bảo kiến thức môn học

Đảm bảo chương trình môn học

Vận dụng các phương pháp dạy học

Sử dụng các phương tiện dạy học

Xây dựng môi trường học tập

Quản lí hồ sơ dạy học

Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn ở các trường trung học phổ thông huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng - 4

Mặt khác, nghiệp trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay năng lực dạy học của giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp có thể mô tả tóm tắt bằng bảng sau:

Bảng 1.2. Năng lực dạy học của giáo viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay‌

NĂNG LỰC DẠY HỌC TRONG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

Nhóm 1

NL xây dựng KH DH

Nhóm 2

NL triển khai các HĐ DH

Nhóm 3

NL kiểm tra, đánh giá điều chỉnh HĐ DH

- Xác định các nguồn lực cần thiết cho công việc xây dựng KHDH

- Xác định mục tiêu DH

- Sắp xếp, bổ sung nội dung dạy học từ SGK và các nguồn tài liệu

- Xác định, lựa chọn xác định lựa chọn, phối hợp PP DH phù hợp

- Sắp xếp nội dung, thời gian cho kế hoạch DH trong học kì, năm học.

- Thiết kế KH DH môn học, KH bài dạy (Giáo án).

Xây dựng, bảo quản, sử dụng hồ

sơ DH.

- Tổ chức các hoạt động phù hợp với mục tiêu

- Sử dụng hợp lí, linh hoạt các hình thức tổ chức DH, PP, phương tiện, công cụ DH

- Sử dụng các nguồn lực khác nhau

- Quản lí lớp học, thu hút được HS tham gia tích cực vào các hoạt động trên lớp.

- Xây dựng KH kiểm tra đánh giá cho cả môn học, từng học kì, từng tuần học

- Tổ chức các hoạt động tự đánh giá lẫn nhau của HS

- Lập sổ theo dõi sự tiến bộ của HS

Như vậy, năng lực dạy học là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học đạt kết quả với chất lượng cao của người giáo viên.

1.2.4. Bồi dưỡng năng lực dạy học

1.2.4.1. Bồi dưỡng

Từ điển Tiếng Việt cho rằng: Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất.

Theo các tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được hiểu như sau: Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, thái độ để nâng cao năng lực trình độ, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực.

Bên cạnh đó có thể hiểu, bồi dưỡng là các hoạt động bổ sung, làm tăng thêm trình độ hiện có về kiến thức, kỹ năng, NLDH, thái độ nhằm giúp cho giáo viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy đạt kết quả tốt hơn.

Mặt khác, hoạt động bồi dưỡng không thể diễn ra trong một sớm, một chiều mà đó là quá trình làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất của người giáo viên. Hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách theo mục đích đã chọn. Hiểu theo nghĩa hẹp, hoạt động bồi dưỡng là quá trình cập nhật kiến thức, kỹ năng còn thiếu hoặc đã cũ, nhằm mục đích nâng cao hoặc hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể để làm tốt hơn công việc đang tiến hành. Từ góc độ khác, hoạt động bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao năng lực nghề nghiệp. Quá trình này diễn ra khi người lao động và tổ chức sử dụng người lao động có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.

Như vậy, mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất và năng lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở rộng, và nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn - nghiệp vụ đã có, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả công việc đang làm.

Tóm lại: Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, thái độ để nâng cao năng lực trình độ, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực hoạt động mà người lao động đã có một trình độ năng lực chuyên môn nhất định qua một hình thức đào tạo nào đó.

1.2.4.2. Bồi dưỡng năng lực dạy học

Có thể hiểu, BD NLDH cho GV là quá trình bổ sung, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng tương ứng theo nội dung các năng lực DH cho GV một cách thường xuyên để giúp họ cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới những kiến thức, kĩ năng, thái độ, làm tăng thêm năng lực, phẩm chất cho GV đáp ứng nhiệm vụ DH trước yêu cầu đổi mới.

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn quan tâm đến giáo dục và đào tạo (GD&ĐT). Đổi mới giáo dục là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều Nghị quyết, chỉ thị về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Đáng chú ý là Nghị quyết Trung ương 4 (NQTW) (khóa VII), NQTW 2 (khóa VII), Thông báo Kết luận số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15/9/2009. Đảng đã khẳng định: GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân; mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục phải gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ; đa dạng hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng trong giáo dục…

Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Trong đó, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt, là nền tảng có tính động lực để đưa giáo dục lên tầm cao mới, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Thực tế cho thấy, quá trình BDGV gồm một số yếu tố cơ bản như: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, nguồn lực thực hiện và đánh giá kết quả BD. Các yếu tố này có mối quan hệ tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể, vận hành trong môi trường GD của nhà trường và môi trường kinh tế - xã hội của địa phương. Mối quan hệ đó có thể mô tả theo sơ đồ:


Nguồn lực thực hiện

Mục tiêu

Nội dung

BDGV

Hình thức tổ chức

Đánh giá kết quả

Phương pháp

Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong bồi dưỡng giáo viên


Từ sơ đồ ta thấy, BDGV vừa phải bổ sung cập nhập kiến thức, kỹ năng mới nhằm nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; vừa phải BD các NL thích ứng với đối tượng nghề nghiệp thường xuyên biến động - người học, sản phẩm độc đáo của quá trình giáo dục.

Nói tóm lại, bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên là quá trình tổ chức cho giáo viên cập nhật, bổ sung các tri thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm để nâng cao kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình dạy học, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của nền giáo dục, nhất là trong giai đoạn đổi mới toàn diện ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

1.2.5. Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học

Quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV là quá trình thực hiện các công việc xây dựng kế hoạch BD (bao gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế hóa), sắp xếp tổ chức (bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc, điều phối nguồn lực tài chính và kĩ thuật…), chỉ đạo,

điều hành, kiểm soát và đánh giá kết quả, sửa chữa sai sót (nếu có) hoạt động DH để bảo đảm hoàn thành mục tiêu nâng cao NLDH cho GV của nhà trường đã đề ra.

Việc quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV trước hết là thuộc về các tổ chuyên môn (TCM). TCM trong trường THPT là một bộ phận của nhà trường, gồm một nhóm GV (từ 3 người trở lên) cùng giảng dạy về một môn học, một nhóm môn học hay một nhóm viên chức làm công tác thư viện, thiết bị giáo dục,… được tổ chức lại để cùng nhau thực hiện các nhiệm vụ theo qui định tại khoản 2 điều 16 của Điều lệ nhà trường [8, tr.10-11].

TCM là một bộ phận cấu thành của trường THPT. Các tổ, nhóm chuyên môn có mối quan hệ hợp tác với nhau, phối hợp với các bộ phận nghiệp vụ khác, các tổ chức đoàn thể để thực hiện các nhiệm vụ của tổ, của nhà trường nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. TCM là đơn vị để tổ chức và triển khai các mặt hoạt động của nhà trường, trong đó trọng tâm là hoạt động giáo dục và dạy học, là đầu mối mà Hiệu trưởng nhất thiết phải tập trung dựa vào đó để quản lý nhà trường trên nhiều phương diện. TCM cũng là nơi QL trực tiếp việc BD cho GV về nhận thức, chuyên môn, nghiệp vụ; phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của từng GV, từ đó có kế hoạch BDGV một cách hợp lí. Ngoài ra, TCM còn có khả năng tập hợp, đoàn kết, tìm hiểu tâm tư, tình cảm và những khó khăn của các GV trong tổ, là nguồn động viên tinh thần cho mọi thành viên trong TCM cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ của người GV trường THPT.

Theo qui định tại khoản 2, điều 16 Điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học [8, tr.10-11], TCM có các nhiệm vụ chính: Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch hoạt động chung của tổ; Hướng dẫn xây dựng và QL kế hoạch cá nhân của tổ viên theo kế hoạch DH, phân phối chương trình và các hoạt động GD khác của nhà trường: Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho GV thuộc tổ quản lý; Tham gia đánh giá, xếp loại các thành viên của tổ theo quy định của CNN GV trung học và các quy định khác hiện hành; Giới thiệu tổ trưởng, tổ phó; Đề xuất khen thưởng, kỷ luật đối với GV; TCM sinh hoạt hai tuần một lần và có thể họp đột xuất theo yêu cầu công việc hay khi Hiệu trưởng yêu cầu. Như vậy theo qui định này, tổ chức BD NLDH cho GV là một nhiệm vụ rất quan trọng của TCM.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí