- Giai đoạn 1: Tiếp nhận sự hướng dẫn (bao gồm việc nhận biết mục đích, ý nghĩa, yêu cầu và cách thức thực hiện hành động).
- Giai đoạn 2: Diễn đạt quy trình, tái hiện lại hành động.
- Giai đoạn 3: Quan sát, nắm vững cách thức hành động.
- Giai đoạn 4: Thực hiện thành thạo hành động một cách có ý thức.
- Giai đoạn 5: Vận dụng sáng tạo kinh nghiệm vào những tình huống khác nhau [2].
Tương ứng với 5 giai đoạn là 5 mức độ của KN từ thấp tới cao, đó là các mức độ: nhận biết, tái hiện, nắm vững, thành thạo và sáng tạo với 3 tiêu chí đánh giá kỹ năng: tính đúng đắn, tính thành thạo và tính hiệu quả.
1.3.3. Mối quan hệ giữa dạy học và phát triển KNHTHT
Tâm lý học hoạt động đã chỉ ra rằng con đường để hình thành, phát triển kỹ năng, kỹ xảo là con đường luyện tập có mục đích, có hệ thống [19]. Vưgôtxki L. X. ; Lêonchiev A. N. ; Rubinxteein X. L. ; Piajet J. ; Ia Galperin P. ; Đavưdov V. V. ... khi bàn về cơ chế hình thành hành động, trong đó có việc huấn luyện để đạt được mức kỹ năng, kỹ xảo cũng đã phân loại các kiểu luyện tập như: luyện tập ngẫu nhiên (theo con đường thử và sai); luyện tập theo chương trình hoá (luyện tập theo quy trình nhất định); luyện tập có điều khiển, hướng dẫn (có mục đích, có chủ định).
Theo lý luận DH, DH chính là con đường tổ chức cho HS thực hiện các thao tác, các hành động học tập theo chương trình hoá có điều khiển và hướng dẫn của GV. Đây chính là con đường luyện tập các KN học tập hiệu quả tránh được những mò mẫm, sai sót. Nghiên cứu lý luận cho thấy KNHTHT là cách thức thực hiện có hiệu quả các hành động HTHT của SV trong hoạt động nhóm hợp tác. Thông qua DH với mục tiêu hướng vào phát triển KNHTHT cho SV, giảng viên sẽ thiết kế và sử dụng rất nhiều các cách thức DH với những quan hệ đa dạng nhằm phát triển tối đa tài nguyên giao tiếp, quan hệ tương tác giữa SV - SV trong lớp học… để SV được hoạt động hợp tác trong nhóm với các bước chương trình hoá chính xác và có điều khiển, hướng dẫn một cách thường xuyên. Từ đó các KNHTHT của SV sẽ được hình thành, củng cố và phát triển. Như vậy, phát triển KNHTHT cho SV hiệu
Có thể bạn quan tâm!
- Dạy học theo hướng phát triển kỹ năng học tập hợp tác cho sinh viên Đại học Sư phạm - 2
- Những Khái Niệm Cơ Bản Liên Quan Tới Đề Tài
- Dạy Học Theo Hướng Phát Triển Kỹ Năng Học Tập Hợp Tác
- Đặc Điểm Cơ Bản Của Dh Theo Hướng Phát Triển Knhtht
- Yêu Cầu Khi Thiết Kế Dh Theo Hướng Phát Triển Knhtht
- Thực Trạng Nhận Thức Của Gv Và Sv Về Dh Theo Hướng Phát Triển Knhtht
Xem toàn bộ 242 trang tài liệu này.
quả nhất chính là có sự điều khiển, hướng dẫn, cố vấn, tham gia của GV thông qua con đường DH. Ngược lại, khi KNHTHT của SV trở nên thuần thục và phát triển nó sẽ tạo cơ sở để DH của GV thành công. Bởi vì KNHTHT là KN học tập không thể thiếu được đối với mỗi SV hoạt động học tập trong môi trường hiện đại. Đó là việc thực hiện phương pháp học tập có tính chính xác về mặt nội dung, kỹ thuật góp phần tạo nên hiệu quả học tập.
Có thể nói, DH và phát triển KNHTHT có mối quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau. DH là con đường phát triển KN, đồng thời KN là cơ sở, điều kiện để DH thành công. Tuy nhiên theo chúng tôi, để DH thực sự có hiệu quả trong mối quan hệ phát triển các KNHTHT, cần quán triệt quan điểm của 2 anh em Jonhson và 2 nhà thiết kế DHHT nổi tiếng Sheng Qun Li và Zheng Shu Zhen [96] là DH phải tuân theo những yêu cầu sau:
+ Phải tuân theo mục tiêu và kế hoạch chi tiết đã thiết kế.
+ Phải căn cứ vào đối tượng SV trong các giai đoạn phát triển nhóm hợp tác khác nhau để truyền thụ các kỹ năng khác nhau.
+ Phát triển KNHTHT phải tiến hành tuần tự từng bước. Từ giúp đỡ SV nhận biết tầm quan trọng của việc thực hiện hành vi, thao tác HTHT đến luyện tập phát triển các KN. Từ những KN dễ đến thử nghiệm và phát triển những KN khó, phức tạp hơn.
+ Lựa chọn thời cơ tốt để truyền thụ kỹ năng (lúc SV gặp khó khăn khi thực hiện HTHT và mong muốn có những KN này).
+ Kiên trì tạo dựng môi trường HTHT để SV được thường xuyên vận dụng, lặp đi lặp lại và phát triển sáng tạo các KN thông qua các quan hệ qua lại.
+ Thường xuyên bình xét, đánh giá, thảo luận các biểu hiện việc sử dụng các KNHTHT của SV để nâng cao chất lượng học tập và chất lượng KN.
Hai anh em Jonhson đã nhận định rằng: “KNHTHT không phải ngẫu nhiên mà có mà nó đòi hỏi GV phải huấn luyện, bồi dưỡng có ý thức” [97].
Như vậy, KNHTHT phải được phát triển trên cơ sở thống nhất từ việc xác
định mục tiêu, xác định nhiệm vụ, lựa chọn nội dung, phương pháp, kỹ thuật... đến
việc triển khai các bước tiến hành hoạt động DH cùng nhằm chung một mục đích. Tuy nhiên, sự phát triển của KNHTHT có thể triển khai hợp tác các trình độ khác nhau; mặt khác trước khi triển khai hợp tác phải bồi dưỡng, bổ trợ giúp SV có được kiến thức, kinh nghiệm về KN đó, nếu không sẽ không có được sự thành công.
1.3.4. Hệ thống kỹ năng học tập hợp tác cần phát triển cho SV ĐHSP
1.3.4.1. Đặc điểm học tập của SV ĐHSP
* Sinh viên ĐHSP
SV là lớp thanh niên trí thức ở lứa tuổi từ 18- 25 đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng. Họ đã trưởng thành về mặt thể chất, tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội, đang tích cực học tập, rèn luyện để có nghề nghiệp phục vụ cho cuộc sống tương lai. SV đang ở trong thời kỳ chuyển tiếp từ người học sang người lao động độc lập, có ý thức. Họ là nguồn dữ trữ cho đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, SV đang còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn còn phụ thuộc vào cha mẹ về mặt kinh tế, tình cảm, chưa hoàn toàn tự lập và vẫn cần sự giáo dục, dạy dỗ, tư vấn của các thầy, cô giáo.
SV ĐHSP là những người đang theo học tại các trường ĐHSP với mục tiêu phấn đấu trở thành giáo viên để giảng dạy trong các nhà trường. Trong quá trình học tập họ phải rèn luyện cả về phẩm chất nhà giáo và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Cụ thể là:
+ Tu dưỡng hình thành ý thức công dân, đạo đức, tác phong nhà giáo, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
+ Có lòng yêu nghề, nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục, không quản ngại khó khăn, gian khổ, gắn bó lâu dài với sự nghiệp giáo dục.
+ Rèn luyện, phát triển năng lực sư phạm, nắm vững đặc điểm tâm lý học sinh, sinh viên, hình thành kỹ năng tổ chức các hoạt động DH và GD, thiết lập mối quan hệ giữa các lực lượng giáo dục, giữa HS - HS và các kỹ năng tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
* Đặc điểm hoạt động học tập của SV ĐHSP
Hoạt động học tập của SV ĐHSP diễn ra có kế hoạch, phụ thuộc vào nội dung, chương trình, thời hạn đào tạo và phương thức DH của các giảng viên trong nhà trường Sư phạm.
Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, giáo trình, phòng thực nghiệm, các thiết bị của bộ môn và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Đặc trưng hoạt động học tập của SV ĐHSP là vừa học tập, vừa tự nghiên cứu, vừa rèn luyện phẩm chất, năng lực nhà giáo. Các trường SP không chỉ dạy cho SV về kiến thức chuyên ngành, mà còn có kiến thức về xã hội, về tâm lý giáo dục để mỗi SV phải trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực GD.
Hiện nay ở các trường ĐHSP đang chuyển từ cách đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ. Việc học tập của SV được diễn ra trong các lớp học khá linh hoạt, với các nhóm SV có cùng nhu cầu, nguyện vọng cùng đăng ký học tập trong cùng một hội trường theo kế hoạch của nhà trường. Cách học này tạo ra nhiều cơ hội giao lưu, trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm với nhau. Chương trình học tín chỉ được thiết kế theo hướng giảm số tiết lý thuyết, tăng cường thực hành, tăng cường thảo luận nhóm và tự học. Do đó đòi hỏi SV phải có KNHTHT mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Các nhà phê bình GD người Mỹ Ellis A. K. và Foutr J. T. trong cuốn "Nghiên cứu cải cách GD" đã viết "DH hợp tác nếu không nói là cải cách GD thì ít nhất nó cũng là một khâu đổi mới lớn nhất." [92, tr.165].
Do đó tổ chức DH theo hướng phát triển KNHTHT không chỉ để nâng cao kết quả học tập cho SV, mà còn là những giờ học mẫu về phương pháp DH thiết thực cho nghề nghiệp của sinh viên sau này.
1.3.4.2. Hệ thống kỹ năng học tập hợp tác của SV ĐHSP
Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, cùng với việc phân tích đặc điểm học tập của SV ĐHSP, chúng tôi đề xuất 4 nhóm kỹ năng học tập hợp tác cần phát triển cho sinh viên như sau:
* Nhóm kỹ năng xác lập vị trí của cá nhân trong hoạt động nhóm
Bao gồm các kỹ năng:
+ Liên kết, di chuyển nhóm.
+ Phân công/ tiếp nhận nhiệm vụ phù hợp với năng lực cá nhân.
+ Tập trung chú ý vào công việc.
+ Xác định nhiệm vụ của bản thân.
+ Đảm nhận các vai trò khác nhau trong nhóm.
+ Thống nhất cách thức thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân và của nhóm.
* Nhóm kỹ năng biểu đạt và tiếp nhận thông tin học tập
Bao gồm các kỹ năng:
+ Tìm kiếm thông tin, chuẩn bị phát biểu.
+ Trình bày nội dung nghiên cứu.
+ Nắm bắt, nghe hiểu các ý kiến trao đổi.
+ Tóm tắt ý kiến của người khác.
+ Khéo léo đặt câu hỏi cho người trình bày để hiểu rõ hơn quan điểm của họ.
+ Thảo luận, thương lượng và thống nhất ý kiến trong nhóm.
* Nhóm kỹ năng xây dựng và duy trì bầu không khí thân thiện tin tưởng lẫn nhau
Bao gồm các kỹ năng:
+ Tôn trọng, lắng nghe và bày tỏ sự ủng hộ.
+ Chia sẻ tài liệu, thông tin có liên quan nhằm tạo sự thành công cho bạn và cho nhóm.
+ Tranh luận hướng vào nội dung cần giải quyết, không hướng vào đả kích cá nhân người trình bày.
+ Gợi mở, động viên, khuyến khích các thành viên khác tích cực tham gia.
+ Khéo léo tận dụng sự ủng hộ, góp ý của nhóm và của GV.
* Nhóm kỹ năng giải quyết những bất đồng
Bao gồm các kỹ năng:
+ Phát hiện mâu thuẫn nảy sinh trong thảo luận.
+ Tìm phương án giải quyết mâu thuẫn.
+ Thể hiện ý kiến không đồng tình, nhưng không xúc phạm các bạn.
+ Kiên trì, kìm chế sự nóng nảy.
+ Điều chỉnh, ngăn chặn đi lệch chủ đề, nhưng không làm mất lòng bạn.
+ Tiếp nhận và thể hiện trách nhiệm khi bạn góp ý.
Kỹ năng xây dựng và duy trì bầu không khí tin tưởng và chia sẻ
1. Tôn trọng, lắng nghe và bày tỏ sự ủng hộ.
2. Chia sẻ tài liệu, sách vở, thông tin liên quan nhằm tạo sự thành công cho bạn và cho nhóm.
3. Tranh luận hướng vào nội dung nhiệm vụ cần giải quyết, không hướng vào cá nhân người trình bày.
4. Gợi mở, động viên, khuyến khích các thành viên trong nhóm tích cực tham gia.
5. Khéo léo tận dụng sự ủng hộ, góp ý của GV và của bạn.
Kỹ năng học tập hợp tác
Nhóm kỹ xác lập vị trí, vai trò cá nhân trong
hoạt động nhóm
1. Liên kết, di chuyển nhóm nhanh
không hưởng
gây ảnh
tới
nhóm
khác (≤ 1 Phút).
2. Phân công/ tiếp nhận nhiệm vụ hợp với năng lực cá nhân trong nhóm.
3. Tập trung, tham gia vào công việc ngay khi ngồi vào chỗ.
4. Xác định nhiệm vụ của bản thân trong sự phụ thuộc hoạt động nhóm.
5. Đảm nhận các vai trò khác nhau trong nhóm.
6. Thống
cách thức
nhất thực
nhiệm vụ của từng cá nhân và nhóm.
Nhóm kỹ năng biểu đạt và tiếp nhận thông tin học tập
1. Tìm kiếm tri thức, giải quyết nhiệm vụ cá nhân, chuẩn bị trước khi phát biểu.
2. Trình bày
dung nghiên
nội cứu
trước nhóm.
3. Nắm bắt, cảm nhận được người nghe, hiểu vấn đề truyền đạt.
4. Lắng nghe và tóm tắt ý kiến của người khác.
5. Khéo léo đặt câu hỏi cho người trình bày để hiểu hơn những vấn đề chưa rõ.
6. Thảo luận, thương lượng và thống nhất ý kiến trong nhóm.
Nhóm kỹ năng giải quyết mối quan hệ bất đồng học tập
1. Phát hiện những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình học tập hợp tác.
2. Tìm ra phương án giải quyết mâu thuẫn.
3. Thể hiện ý kiến không đồng tình mà không xúc phạm bạn.
4. Kìm chế sự nóng nảy trong tranh luận.
5. Điều chỉnh, ngăn bạn nhưng không làm bạn mất lòng khi đi lệch chủ đề thảo luận.
6. Tiếp nhận và thực hiện trách nhiệm khi bạn góp ý.
Sơ đồ 1.1: Khái quát các KNHTHT
Các nhóm kỹ năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự phát triển của nhóm kỹ năng này là cơ sở để hình thành các nhóm kỹ năng khác và ngược lại.
1.4. Lý luận dạy học theo hướng phát triển KNHTHT cho SV ĐHSP
1.4.1. Một số thuyết cơ sở của DH theo hướng phát triển KN HTHT
Tổ chức dạy học theo hướng phát triển KNHTHT đã trở thành chiến lược DH thịnh hành của nhiều nước trên thế giới hiện nay, được dựa trên các cơ sở lý luận khoa học vững chắc của Tâm lý học, Giáo dục học, Xã hội học… với một số lý thuyết như sau:
* Lý thuyết động lực nhóm
Tư tưởng chính của thuyết động lực nhóm của Xã hội học cho rằng: Trong nhóm giữa người với người sẽ hình thành một quan hệ phức tạp (quan hệ tương hỗ), quan hệ này sẽ ảnh hưởng đến hành vi của họ. Do đó, mỗi cá nhân trong nhóm sẽ có ảnh hưởng qua lại với nhau và tổng hợp những mâu thuẫn sẽ cấu thành động lực của hành vi tập thể. Bản chất của nhóm chính là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên dẫn đến nhóm trở thành một chỉnh thể trọn vẹn. Trong nhóm, bất kỳ thay đổi vị trí, vai trò của một thành viên cũng dẫn đến thay đổi của các thành viên khác. Sự phụ thuộc tích cực lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm là động lực để nhóm đạt được mục tiêu chung mong muốn.
Các nhà lý luận DH lấy lý thuyết động lực nhóm làm cơ sở cho việc tổ chức DH theo hướng HTHT. Bởi họ cho rằng động lực nhóm là một nguồn năng lượng đến từ nội bộ tập thể mang tính hợp tác. Trong nhóm không ít những thành viên có khả năng nhận biết, có phương pháp tư duy, có tác phong làm việc và trình độ trí tuệ khác nhau. Trong quá trình làm việc cùng nhau, họ sẽ hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưởng, nương tựa lẫn nhau… từ đó mà nảy sinh tư tưởng nhận thức mới, đồng thời tạo ra bầu không khí yêu thương lẫn nhau, động viên, khuyến khích lẫn nhau, dùng sức mạnh trí tuệ tập thể cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ học tập. Qua đó mỗi thành viên đều đạt được tri thức, kỹ năng làm việc hợp tác và cùng tiến bộ.
Người khởi xướng lý thuyết này nhà tâm lý học Kurt Lewin [102], tiếp theo là Morton Deutsch [104], Jonhson D. W. [91]... tiếp tục phát triển và thực nghiệm ở các nước Phương Tây đã mang lại thành công vượt trội so với dạy học truyền thống. Nhìn từ góc độ động lực nhóm, hạt nhân của lý luận DH theo hướng phát triển KNHTHT có thể hiểu đơn giản là khi mọi người cùng tập hợp lại với nhau vì mục đích chung mà làm việc thì chỗ dựa chính là sức mạnh của sự đoàn kết.
* Lý thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo là một nhánh của lý thuyết Tâm lý học hành vi mà Piagie J. ; Vygotsky L. X. là đại diện cho quan điểm nghiên cứu này. Đây là một lý luận dạy học trọng yếu, một nhận thức mới của giáo dục, hưng khởi từ Châu Âu và có ảnh hưởng rộng rãi đối với hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận của DH hiện nay.
Một trong những nhận thức mới của chủ nghĩa kiến tạo cho rằng: Học tập không phải tri thức do chuyển tải của thầy giáo sang học sinh, mà là người học được học trong một môi trường xã hội (GV, kiến thức, đối tượng học tập…). Trong quá trình học tập người học chủ động dựa vào kinh nghiệm hiểu biết của bản thân để thu thập những tri thức, kinh nghiệm mới. Thông qua sự hỗ trợ của kinh nghiệm mới và cũ, tiến hành lý giải, gia công, cải tạo, “đồng hoá” và “thích ứng” một cách đầy đủ, từ đó xây dựng kết cấu tâm lý mới (các tri thức mới) của cá nhân. Thầy giáo là người tổ chức, cố vấn, giúp đỡ, chủ đạo trong việc xúc tiến quá trình DH qua dẫn dắt phát huy động cơ, hứng thú để quá trình học tập của người học diễn ra chân thực trong môi trường tương tác. Ý nghĩa của thuyết này nhấn mạnh sự tương tác giữa chủ thể với môi trường xung quanh, nó đóng vai trò quan trọng trong việc nắm nội dung và tri thức học tập [4, tr. 42-45]. Đây cũng là thuyết đề xướng cho quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm.
Nhấn mạnh môi trường học tập chân thực và tác động xã hội qua lại cũng là hai nhân tố cơ bản của tư tưởng của DH theo hướng phát triển KNHTHT. Bởi trong DHHT, người học dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, cùng nhau thảo luận, giao lưu, cùng nhau xây dựng tập thể học tập. Trong tập thể học tập qua lại này, họ cùng nhau khảo sát, phê phán các loại lý luận, quan điểm, giả thuyết… bàn bạc nội bộ trước và tự thân tranh luận quan điểm của cá nhân, rồi lại cùng nhau bàn bạc, hiệp thương đi đến thống nhất… Trong môi trường học tập như vậy, trí tuệ và tư duy của tập thể người học được cộng hưởng, kỹ năng học tập được phát triển và cùng nhau hoàn thành “kiến tạo” tri thức mới.
* Lý thuyết nhu cầu
Cùng quan điểm về hệ thống phân cấp nhu cầu của học thuyết Maslow, lý thuyết nhu cầu mà đại diện là tác giả William Gelasser cũng cho rằng: Ẩn giấu trong các gen của con người có 4 nhu cầu tâm lý thúc đẩy ý thức cá nhân thực hiện các hoạt động cộng đồng đó là: nhu cầu hữu nghị (tình bạn); nhu cầu sức mạnh (tự tôn); nhu cầu tự do và nhu cầu khoái lạc. Mỗi nhu cầu đều có vai trò quan trọng riêng, nó cần thiết như chúng ta phải đưa thức ăn vào cơ thể để sống. Nhu cầu nào được thoả mãn cũng sẽ làm cho chúng ta cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.