Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG DẠY HỌC PHÂN HÓA CHO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Trên thế giới, dạy học phân hóa không phải là một quan niệm dạy học mới mà đã được nghiên cứu và đề xuất từ lâu. Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà hiền triết Trung Quốc cũng đã tiến hành thực hiện việc dạy học phân chia nội dung thành hai phần công truyền và phần tâm truyền cho các đối tượng học khác nhau. Các nhà tư tưởng lớn như: J.J. Rutxô (1712-1778) người Pháp; A. Ditecvec (1970-1866) ở Đức và Petxtalođi (1746 - 1827) tại Thụy Sĩ đều cho rằng người thầy giáo chỉ thành công trong dạy học nếu biết tiến hành công việc này dựa trên đặc điểm tâm-sinh lý của trẻ. Nhà giáo dục người Nga K.Đ.Usinxki (1824 - 1870) cũng nhận định: muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt. John Dewey (1859 - 1952) người Mỹ quán triệt dạy học phải căn cứ vào tiềm năng, năng lực vốn có của học sinh, phải giúp đỡ học sinh theo nhu cầu, hứng thú, lợi ích và kinh nghiệm của cá nhân học sinh [18].
Thomas Armstrong (2000) dựa trên nền tảng lý thuyết “đa trí tuệ” (1983) của Howard Gardner [14], ông công bố công trình “Đa trí tuệ trong lớp học” đã xây dựng chương trình, môi trường học, chiến lược học, các quản lý, đánh giá và thiết kế kế hoạch dạy học theo hướng phân hóa [20].
Bắt đầu từ năm 1992 đến nay nhà khoa học người Mỹ Carol Ann Tomlinson (sinh năm 1944) làm việc tại Đại học Virginia Charlottesville liên tục công bố các công trình nghiêm cứu chuyên sâu về dạy học phân hóa trong lớp học. Giai đoạn đầu bà chủ yếu nghiên cứu dạy học phân hóa cho những học sinh năng khiếu và tài năng đặc biệt. Kể từ đó đến nay, hầu như năm nào bà cũng công bố các công trình nghiên cứu về dạy học phân hóa. Giai đoạn những năm 2000 trở lại đây, những công trình nghiên cứu của bà đi sâu vào nghiên
cứu cách thức, chương trình, chiến lược, cách chấm điểm, đánh giá và quản lý lớp học trong dạy học phân hóa. Ban đầu vào năm 2001 bà chỉ ra 3 thành phần quan trọng trong chiến lược dạy học phân hóa là phân hóa ở nội dung, quy trình và sản phẩm. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến naybaf đã bổ sung và hoàn thiện 6 thành phần quan trọng trong dạy học phân hóa gồm: phân hóa từ hứng thú của người học, phân hóa trong đánh giá, phân hóa ở kế hoạch bài học, phân hóa nội dung, quy trình và phân hóa ở sản phẩm [28].
Những năm gần đây, nhiều nhà khoa học khác đã đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học của dạy học phân hóa, tiêu biểu có Pearl Subban (2006) [27] và Holli M.Levy (2008) [26]… đã phân tích rõ tiêu chí để thực hiện dạy học phân hóa trong lớp học như: năng lực học tập, nhịp độ, hứng thú, đặc điểm xã hội của học sinh…
1.1.2. Ở Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Bồi dưỡng kỹ năng dạy học phân hóa cho giáo viên THCS thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương - 1
- Bồi dưỡng kỹ năng dạy học phân hóa cho giáo viên THCS thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương - 2
- Bồi Dưỡng, Bồi Dưỡng Kỹ Năng Dạy Học Phân Hóa
- Nhóm Kỹ Năng Điều Chỉnh Và Hoàn Thiện Quá Trình Dhph
- Phương Pháp Bồi Dưỡng Kỹ Năng Dạy Học Phân Hóa Cho Giáo Viên Thcs
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) luôn luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người. Hồ Chí Minh rất quan tâm tới nội dung và phương pháp giáo dục phải phù hợp người học, hướng vào lợi ích của người học. Về phương pháp, Người luôn coi trọng vấn đề đối tượng, vấn đề tôn trọng những đặc điểm của người học. Người định hướng việc lựa chọn cách thức, phương pháp dạy trẻ cho phù hợp qua lời dặn “phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của trẻ, chớ nên làm cho chúng hoá ra người già cả”. Đặc điểm của đối tượng còn chi phối cả cách viết tài liệu sao cho phù hợp. Hồ Chí Minh đã nói “vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp với từng hạng. Tài liệu không thích hợp thì học không có lợi ích gì”. Cách tổ chức lớp học cũng phải có sự phù hợp. Người phê phán việc mở lớp “lung tung”, lớp học quá đông người học: “Đông quá thì dạy và học ít kết quả, vì trình độ lý luận của người học chênh lệch nên thu nhận không đều ” [6].
Trong những năm gần đây, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào tạo nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói riêng, nhiều nhà nghiên cứu
đã đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi mới nội dung dạy học theo hướng nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với thục tiễn sản xuất và đời sống, vấn đề lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy học trong đó có nhiều công trình nghiên cứu dạy học phân hóa.
- Nghiên cứu dạy học phân hóa ở cấp vi mô:
Trong đó có những nghiên cứu về lý luận của dạy học phân hóa vi mô trong lớp học có cùng nội dung, chương trình, tác giả Nguyễn Bá Kim trong cuốn “Phương pháp dạy học môn Toán (phần đại cương)” xem xét dạy học phân hóa như là kiểu dạy học xuất phát từ biện chứng của thống nhất và phân hóa, đây là kiểu dạy học đảm bảo thực hiện tốt mục đích dạy học cho mọi học sinh, phát triển tối đa và tối ưu cho mọi học sinh.
Nhuyễn Thanh Hoàn (2007) trong bài báo khoa học “Dạy học phân hóa: mục tiêu, đặc điểm, con đường và quy trình kế hoạch hóa” đã kết luận: mục tiêu đối với một lớp học phân hóa là giúp chương trình học phong phú và ý nghĩa hơn, tăng động cơ và động lực học tập, phát triển được kỹ năng và tư duy sáng tạo cũng như tư duy giải quyết vấn đề cho học sinh. Học sinh không phải thực hiện một nhiệm vụ học tập như nhau nhưng giáo viên phải thường xuyên đánh giá tâm thế sẵn sàng và hứng thú của học sinh và hỗ trọ chúng khi chúng cần được giảng dạy và hỗ trợ thêm. Việc hình thành nhóm học tập được tiến hành linh hoạt, đôi khi học sinh làm việc độc lập, theo cặp, đôi khi theo nhóm hoặc kết hợp cả ba. Nguyễn Thanh Hoàn xây dựng quy trình kế hoạch hóa việc dạy học phân hóa nội tại gồm 4 bước yêu cầu đối với giáo viên phải: 1- Biết học sinh của mình; 2- Biết sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy; 3- Xác định các hoạt động dạy khác nhau; 4- Xác định cách đánh giá tiến bộ của học sinh [8].
Đặng Thành Hưng (2007) trong “Quan niệm và giải pháp phân hóa dạy học ở trường trung học phổ thông nhằm hội nhập quốc tế” cho rằng phân hóa dạy học là tạo ra những khác biệt trong nọi dung và phương thức hoạt động của
học sinh bằng cách thiết kế và thực hiện học trình theo hướng khác nhau dựa vào nhóm năng lực, hứng thú và nhu cầu học tập của người học và mục tiêu giáo dục của xã hội. Năm 2008 tác giả tiếp tục trình bày những “cơ sở sư phạm của dạy học phân hóa” làm tiền đề quan trọng trong việc xác định quy trình dạy học phân hóa vi mô trong lớp học [11].
Trong năm 2012, luận án của tác giả Lê Hoàng Hà “Quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa ở trường trung học phổ thông hiện nay” trên cơ sở đánh giá những bất cập trong công tác quản lý dạy học phân hóa ở trường phổ thông. Tác giả đã đề xuất các nguyên tắc của dạy học phân hóa, các ưu việt của dạy học phân hóa, qua đó tác giả đã đề xuất các biện pháp, các điều kiện để thực hiện công tác quản lý dạy học phân hóa ở trường phổ thông Việt Nam được hoàn thiện hơn [6].
Võ Thị Minh Chí (2009) đã công bố công trình “nhịp độ nhận thức và tự đánh giá khuynh hướng chọn nghề của học sinh - một cơ sở khoa học để dạy học phân hóa có hiệu quả”. Kết quả nghiên cứu đã đề xuất cơ sở khoa học để dạy học phân hóa, trong đó dự trên sự phân hóa trí tuệ theo thang đánh giá IQ và các lĩnh vực trí tuệ làm căn cứ chính [2].
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Dạy học, dạy học phân hóa
1.2.1.1. Dạy học
Theo tác giả Thái Duy Tuyên, dạy học là một bộ phận của quá trình GD (nghĩa rộng), là quá trình tác động qua lại giữa GV và HS nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo…) để phát triển những năng lực và phẩm chất của người h ọc theo mục đích GD [22].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng, dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm, với một nội dung khoa học, được thực hiện theo một phương pháp sư phạm đặc biệt, do nhà trường tổ chức, thầy giáo thực hiện nhằm giúp cho HS
nắm vững hệ thống kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng hoạt động, nâng cao trình độ học vấn, phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Dạy học là một chức năng xã hội, nhằm truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được, nhằm biến kiến thức, kinh nghiệm thành phẩm chất và năng lực cá nhân ” [7].
Có thể khái quát: Dạy học bao gồm hai hoạt động, đó là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Hoạt động dạy điều khiển quá trình trò chiếm lĩnh kiến thức khoa học, bằng cách đó, hình thành nhân cách trò. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy được biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học của trò. Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học.
Hoạt động học là quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy, người học tự giác, tích cực, chủ động, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trướng xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Hoạt động học có hai chức năng là lĩnh hội tri thức và tự điều khiển hoạt động học.
Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm:“Dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo” [17].
Mục đích sâu xa của dạy học là giúp HS thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách sống để thích ứng với đời sống xã hội hiện đại và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình, cộng đồng bằng lao động cần cù, sáng tạo của bản thân. Kiểu dạy học “nhồi nhét”, “thụ động”, “bình quân”, “đồng
loạt” không quan tâm đến sự phát triển các năng lực của cá nhân, hoàn cảnh,…của HS, đều không còn phù hợp nữa. Dạy học không chỉ tập trung vào nội dung (tức là chỉ lo dạy “cái gì”) mà còn cần tập trung hình thành phương pháp học tập, phương pháp tự học, tự phát triển, tự giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi bài học để HS tự chiếm lĩnh kiến thức mới. GV cần hỗ trợ một cách cao nhất về phương tiện, điều kiện để HS hoàn thành việc học tập một cách chủ động, sáng tạo. Giáo viên phải có kế hoạch (cả năm, từng học kì, từng chương, từng bài) để giúp HS đạt được mục tiêu của giáo dục theo đúng năng lực của từng cá nhân. GV cần quan tâm đúng mức tới môi trường học tập của HS. GV và HS đều là chủ thể của hoạt động dạy học.
1.2.1.2. Dạy học phân hóa
Thuật ngữ “Dạy học phân hóa” do Louis Legrand nhà giáo dục người Pháp đưa ra vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước khi ông bắt đầu thực hiện các nghiên cứu đổi mới các trường trung học.
Carol Ann Tomlinson xác định “phân hóa là một cách dạy học mà theo đó, giáo viên tích cực thay đổi hoặc điều chỉnh chương trình, phương pháp giảng dạy, các nguồn lực, hoạt động học và những sản phẩm của học sinh để đáp ứng nhu cầu của cá nhân học sinh ” [25] Phân hóa không phải là một phương pháp hay một kế hoạch mà hơn thế, nó là một sự cam kết với một triết lý dạy học, khuyến khích học sinh “bằng cách gặp chúng ở chính nơi chúng đang có mặt và đưa chúng đến nơi chúng cần đến”, dù chúng là HS giỏi hay yếu hoặc chúng là những HS xuất thân từ các gia đình và các nền văn hóa khác nhau. Phân hóa là chìa khóa đáp ứng nhu yêu cầu đa dạng của HS mà chúng ta phát hiện được trong lớp học hiện nay [9].
Theo Tracey Hall: Dạy học phân hóa là lí thuyết giảng dạy dựa trên mệnh đề là các cách tiếp cận giảng dạy cần phải đa dạng và thích nghi với sự đa dạng của HS trong lớp học. Mô hình DHPH đòi hỏi GV linh hoạt trong cách tiếp cận của mình đối với việc giảng dạy ,…. Mục đích của dạy học phân hoá là
tối ưu hoá sự trưởng thành của từng HS và giúp cho từng cá nhân người học thành công trong suốt quá trình học [4].
Ở Việt Nam, theo tác giả Đặng Thành Hưng: Dạy học phân hoá (Differenciated Instruction) được hiểu là quá trình dạy học có phân biệt những người học hay nhóm người học, chứ không tiến hành giảng dạy chung chung. Đó là chiến lược dạy học dựa vào sự khác biệt cá nhân và nhóm người học. Trên thực tế mỗi người học thực hiện một quá trình học tập không hoàn toàn như nhau vì nhu cầu, năng lực, hành vi học tập của mỗi người không như nhau. Trong khi đó người dạy lại thường có trách nhiệm giảng dạy ở qui mô lớp và nhóm, dựa trên một chương trình học chung. Vì thế khi sử dụng mô hình chung này nhưng vẫn tôn trọng sự khác biệt đó thì hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. Dạy học phân hoá là cách khắc phục lối dạy cào bằng, hời hợt và nhấn mạnh hoạt động của người học và đáp ứng tốt nhất lợi ích cá nhân của họ [12].
Khái niệm DHPH trước hết liên quan đến người dạy, người học và quá trình dạy học bên trong chương trình (GD). Đó là chiến lược dạy học dựa vào sự khác biệt của nhóm hay cá nhân người học nhằm làm cho chương trình, bài giảng và quá trình dạy học nói chung thích ứng tốt hơn với những khác biệt này, với người học, nhờ vậy có thể đạt hiệu quả cao hơn [12].
Theo tác giả Tôn Thân: Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, sở thích, nhu cầu, các điều kiện học tập nhằm tạo ra những kết quả học tập tốt nhất và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng trong giáo dục, tức là quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học [19].
Từ những định nghĩa của các tác giả khác nhau, chúng ta có thể hiểu rằng:
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của học sinh, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các học sinh mà tìm cách dạy cho phù hợp.
Dạy học phân hoá có thể thực hiện ở 2 cấp độ
Dạy học phân hoá ở cấp vĩ mô (phân hoá ngoài), là sự tổ chức quá trình dạy học thông qua cách tổ chức các loại trường khác nhau, lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau, xây dựng các chương trình giáo dụng khác nhau.
Dạy học phân hoá ở cấp vi mô (phân hoá trong), là tổ chức quá trình dạy học với việc sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp trong tiết học của lớp học cùng một chương trình và sách giáo khoa có tính đến đặc điểm, hoàn cảnh, năng lực, nhu cầu… cá nhân học sinh. Hình thức phân hóa này luôn được là cần thiết, đó là nhiệm vụ của giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng như của tổ chuyên môn và hiệu trưởng nhà trường .
1.2.2. Kỹ năng, kỹ năng dạy học, kỹ năng dạy học phân hóa
1.2.2.1. Kỹ năng
Tác giả Thái Duy Tuyên cho rằng: kỹ năng là hệ thống các thao tác trí tuệ và thực hành. Thực hiện chọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm bảo đạt được mục đích đã đề ra. Điều đáng chú ý là sự thực hiện một kỹ năng luôn luôn được kiểm tra bằng ý thức [21]. Muốn thực hiện được kỹ năng nào bắt buộc phải có tri thức về kỹ năng đó.
Tác giả Đặng Thành Hưng xem kỹ năng không phải khả năng, không phải là kỹ thuật hành động mà chính là hành động được thực hiện có ý thức, có kỹ thuật và có kết quả. Từ đó ông cho rằng: kỹ năng dạy học là kiểu kỹ năng nghề nghiệp mà giáo viên cần có và sử dụng trong hoạt động dạy học để tiến hành có kết quả các nhiệm vụ dạy học theo mục tiêu hay tiêu chuẩn đã quy định [13].
Như vậy chúng ta có thể hiểu: kỹ năng dạy học là tổ hợp các thao tác, hành động của người giáo viên và khi giáo viên thực hiện chọn vẹn hệ thống tổ hợp đó sẽ đạt được kết quả theo mục đích, nhiệm vụ dạy học đã đề ra.