“Củi tôi hái từ con tim/ Cánh rừng con tim rộng dài không đo được/ Lửa cháy hết rồi tôi ngồi khóc/ Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê… /Câu thơ tôi cùng lầm lụi chốn quê”.
Thật đúng với lời nhận xét của Mai Liễu: “Triệu Kim Văn là thế, không vồ vập, kiểu cách. Cứ lặng lẽ trong đời mà lại làm được ít nhiều sự xáo trộn trong thơ.”[31.218] Những lời bộc bạch tâm tình trong bài thơ trên là một âm bản đáng tin cậy nhất để người đọc hiểu về quan niệm sáng tác của nhà thơ, một quan niệm giản dị, chân thành và sâu sắc. Suy cho cùng, giản dị chính là tận cùng của mọi mĩ học. Quan niệm thẩm mĩ ấy sẽ là ngọn đuốc bền bỉ trên con đường sáng tạo đầy chông gai thử thách nhưng cũng đầy hạnh phúc của nhà thơ Triệu Kim Văn.
1.2. Quá trình sáng tác và các giải thưởng.
Tuy âm thầm lặng lẽ và giản dị trong lao động sáng tạo, nhưng Triệu Kim Văn đã có cho mình một gia sản thơ ca rất đáng trân trọng. Đây là kết quả của sự nỗ lực bền bỉ, của tài năng và tâm hồn một ý thức sáng tạo đầy tâm huyết. Chặng đường sáng tác văn học của Triệu Kim Văn bắt đầu từ khi ông theo học “cái chữ”. Là người yêu thích văn chương và ham mê sáng tác nên người con của núi này đã đến với thơ ca thật tự nhiên. Những đứa con tinh thần – sản phẩm đầu tay đã chào đời khi chàng trai người Dao này đang ở độ hai mươi. Năm năm sau, khi thấy những tác phẩm của mình đã đủ độ chín nhà thơ mới ra mắt người đọc bài thơ đầu tiên: “Nhớ Bác ta trồng nhiều cây” (Báo Việt Nam độc lập). Từ đó, ông viết nhiều, viết đều, viết khỏe, nhưng chủ yếu là đăng trên báo và tạp chí. Mãi đến năm 1989 ông mới ra mắt tập thơ đầu tiên: “Hoa núi”.
Với lòng yêu văn chương và sự hăng say, miệt mài trong lao động nghệ thuật, đến nay Triệu Kim Văn đã xuất bản 10 tập thơ: Hoa núi (1989) Mùa sa nhân (1994) Lá tìm nhau (1999) Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt 2002) Lửa
của mồ côi (2002) Lối cỏ (2004) Hoa nắng (Thơ thiếu nhi 2010) Suối nguồn du du
(Thơ song ngữ Dao- Việt 2010) Trời về (2010 ) Sợi mưa hiền (2011)
Quá trình phấn đấu không miệt mài của Triệu Kim Văn đã tạo nên những tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc và phong cách sáng tác của riêng mình. Ông đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng như: Giải thưởng chính thức của Ban văn học dân tộc Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Mùa sa nhân” (1997), giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Con của núi” (2002), giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Trời về” (2010)... Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây là những ghi nhận xứng đáng cho một tài năng, một hồn thơ đẫm cốt cách của dân tộc Dao.
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Triệu Kim Văn - 1
- Thơ Triệu Kim Văn - 2
- Khái Quát Về Biểu Tượng Và Biểu Tượng Trong Thơ
- Hệ Thống Biểu Tượng Trong Thơ Triệu Kim Văn
- Biểu Tượng Nước Trong Thơ Triệu Kim Văn
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
1.3. Thơ Triệu Kim Văn trong thơ dân tộc thiểu số văn học Việt Nam hiện đại
Với một đời sống văn hóa phong phú, sống động, đa sắc diện, Việt Nam có một nền văn học đa dạng, nhiều dòng, nhiều mảng khối. Bên cạnh sự hình thành và phát triển của thơ ca dân tộc Kinh (Việt) đạt đến đỉnh cao với nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu thì còn tồn tại song hành một mảng thơ ca không kém phần đặc sắc mà hiện nay đang thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của các nhà nghiên cứu, đó là mảng thơ ca của các dân tộc thiểu số. Đây là một thế giới hấp dẫn, bí ẩn, giàu sức mời gọi, đang chờ đợi sự khám phá đầy hứa hẹn.
Một bộ phận khá nổi bật trong thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam là thơ ca dân tộc Tày. “Theo nhà thơ Hoàng Triều Ân thì từ thế kỷ thứ V, người Tày đã có thơ viết bằng chữ Hán với tác phẩm “Cố hương từ” - Lê Thế Khanh (394- 460), người tổng Nhượng Bản, châu Thạch Lâm (nay là xã Bình Long, huyện Hòa An) tỉnh Cao Bằng” [45.57]. Đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII có Bế Văn Phụng (1567- 1637) và Nông Quỳnh Vân (1566- 1640) cũng là người
Tày ở Cao Bằng nổi tiếng là hay chữ và sáng tác thơ ca bằng chữ Nôm - Tày. Sau này đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện thêm các tác giả dân tộc Tày sáng tác thơ bằng chữ Hán như: Hà Vũ Bằng, Bế Ích Bồng, Nông Đình Cấp, Lê Văn Dự... Đặc biệt trong đó có Hoàng Đức Hậu (1890- 1945) sáng tác cả ba thứ tiếng: Tày, Việt, Hán. Điều đáng nói là những sáng tác của Hoàng Đức Hậu không chỉ ảnh hưởng đến những người làm thơ cùng thời, mà những nhà thơ sau này như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Y Phương, Dương Thuấn... cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Cũng vào khoảng cuối thế kỷ XIX còn xuất hiện một số nhà thơ dân tộc Thái như: Ngầu Văn Hoan và Lò Văn Thứ. Đặc biệt là Ngầu Văn Hoan, với lời thơ gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân tộc đã đưa văn học dân tộc Thái lên đỉnh cao mới, làm cho thơ ca dân tộc Thái phong phú, trong sáng và giàu hình tượng hơn.
Giai đoạn 1930- 1945, một mảng thơ cách mạng của các dân tộc thiểu số ra đời cùng với thơ cách mạng của cả nước. Các tác giả tiêu biểu như: Hoàng Văn Thụ, Lê Quảng Ba, Hoàng Đình Giang, Dương Công Hoạt... Họ là những chiến sĩ người dân tộc thiểu số hoạt động cách mạng, vừa là người đem hiện thực cách mạng vào những trang thơ. Cách mạng Tháng Tám thành công, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thần thánh của dân tộc nguồn cảm hứng cho thơ ca Việt Nam, trong đó có thơ ca các dân tộc thiểu số. Cùng với các nhà thơ đã xuất hiện từ trước năm 1945 đến nay là sự xuất hiện của các nhà thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, điều đó đã góp phần tạo nên một đội ngũ sáng tác khá đông đảo cho thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam. Với tình yêu quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống, tình yêu đất và người miền núi... họ đã cất lên tiếng thơ chân chất, mộc mạc, hồn nhiên mà sôi nổi, mà nồng nhiệt, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số. Các tác giả tiêu biểu giai đoạn này phải kể đến những tên tuổi như: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại (Tày), Cầm Biêu, Lương Quy Nhân (Thái), Bàn Tài Đoàn (Dao), Lò Ngân Sủn (Giáy), Pờ Sảo Mìn (Pa Dí).v.v..
Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Giai đoạn này, hiện thực đời sống cũng khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ dân tộc thiểu số để một loạt các tập thơ của họ ra đời. PGS. TS Trần Thị Việt Trung đánh giá: “Đây là một thời kỳ thăng hoa của thơ ca dân tộc thiểu số”.[45.107] Làm nên đời sống thơ ca dân tộc thiểu số giai đoạn này vẫn là những gương mặt thơ quen thuộc như: Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Lương Quy Nhân, Bàn Tài Đoàn... và được cộng hưởng bởi một lớp tác giả mới được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa như: Mã Thế Vinh, Vương Anh, Mã A Lềnh, Triều Ân.v.v..
Chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược thắng lợi, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước vào giai đoạn khôi phục, tái thiết, xây dựng, phát triển. Năm 1986 với công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có văn học nghệ thuật đã đưa đến một thời kì “trăm hoa đua nở” [45.107] của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nói “trăm hoa đua nở” là bởi chưa bao giờ lại có một đội ngũ các nhà thơ dân tộc thiểu số lại đông đảo và nhiều thế hệ đến thế. Lớp sau nối tiếp lớp trước với sức sáng tạo mạnh mẽ, sung sức đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm với nhiều giọng điệu khác nhau, nhiều cách thể hiện khác nhau. Ở giai đoạn văn học này, một điều dễ nhận thấy là các nhà thơ dân tộc thiểu số trong quá trình sáng tác vẫn không ngừng tìm tòi, sáng tạo về nội dung và nghệ thuật, nhưng đồng thời cũng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với các thế hệ nhà thơ lớp trước như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Bàn Tài Đoàn..., xuất hiện thêm một đội ngũ tác giả như Y Phương, Lò Ngân Sủn, Nông Thị Ngọc Hòa, Lò Cao Nhum, La Quán Miên, Inrasara.v.v..
Có thể nói, mỗi một nhà thơ đã cất lên tiếng nói của tâm hồn dân tộc mình, tạo nên một hương sắc riêng nhưng vẫn gắn bó và hòa chung vào dòng
sông thơ ca văn học Việt Nam hiện đại. Tuy độ đậm, nhạt khác nhau nhưng sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là sự kết tinh của bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình với bản sắc văn hóa Việt Nam. Và như vậy cũng là sự gắn kết giữa tính truyền thống và hiện đại trong thơ của họ.
Thơ của các nhà thơ các dân tộc thiểu số có sự tương đồng cơ bản. Nó nằm ở sự mộc mạc, tinh tế và độc đáo; ở sự giao thoa giữa dân tộc mình với văn hóa vùng miền một cách hài hòa nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó, thơ c họ cũng vẫn thể hiện được sự khác biệt nhất định. Sự khác biệt đó nằm ở bản sắc văn hóa mang tính đặc trưng riêng của mỗi dân tộc; ở cá tính sáng tạo độc đáo riêng của mỗi tác giả. Sự tương đồng và khác biệt đó tạo nên một nền thơ các dân tộc thiểu số vừa nhất quán lại vừa phong phú, đặc sắc.
Hòa chung trong dòng mạch ấy là các nhà thơ dân tộc Dao. Người con của dân tộc Dao với sự kế tục xứng đáng thành tựu thơ ca của nhà thơ lớp trước Bàn Tài Đoàn là Triệu Kim Văn. Với những sáng tác của mình, Triệu Kim Văn cùng hòa vào nguồn mạch chung ấy mà không mất đi bản sắc riêng của mình. Thơ ca Triệu Kim Văn có một vị trí riêng trong nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Và nếu như không có thơ Triệu Kim Văn thì bức tranh thơ chung ấy sẽ khuyết vắng đi một mảng quan trọng đậm sắc thái dân tộc Dao.
Nếu như nói đến Bàn Tài Đoàn là nói đến hồn thơ đậm chất truyền thống dân tộc Dao thì thơ Triệu Kim Văn là sự sáng tạo, đổi mới thơ Dao trong thời kỳ hiện đại. Là người con của tỉnh Bắc Kạn, thơ Triệu Kim Văn dù vui hay buồn, dù viết về đề tài tự nhiên hay xã hội... cũng là tiếng nói tâm hồn của người Dao với những hình thức mới, dáng vẻ mới. Vể bề ngoài, nhà thơ Triệu Kim Văn là một người giản dị, kín đáo và ít nói, nhưng khi đọc những vần thơ của ông mới thấy một tâm hồn đầy nhiệt huyết, cháy bỏng tình yêu trước cuộc đời. Ông quan niệm: “Sáng tác là một phần của cuộc sống. Và thơ là tình yêu, là nhịp đập của trái tim” [55.64] cho nên dù nếu không có tác phẩm “vượt đoạn trường” thì ông cũng vẫn vui vẻ:
“Dẫu ta rớt ở ngay đầu chặng
Cũng vui lòng bởi cuộc sống mến thương” (Cuộc sống nhà văn)
Có thể thấy, thơ ca dân tộc Dao khá phong phú, với nhiều tên tuổi khác nữa còn cần phải kể đến như Đặng Phúc Lường, Bàn Thị Cúc, Phùng Trang Hồng... Nhưng tựu chung lại “Nói đến thơ ca dân tộc Dao thì có hai cái tên án ngữ cả chặng đường 60 năm sau cách mạng tháng Tám. Đó là Bàn Tài Đoàn và Triệu Kim Văn” [46.74]. Nếu nhà thơ Bàn Tài Đoàn được ví là “cây cao bóng cả” của thơ Dao, thì Triệu Kim Văn chính là “người tiếp tục vun trồng” [38.25] để cho cây thơ ca dân tộc Dao mãi mãi xanh tươi. Như vậy, đây là một sự kế thừa, tiếp nối và nâng cao phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên tất yếu của một nền thơ ca. Nhìn nhận và đánh giá thỏa đáng vị trí của một tác giả cũng là việc làm quan trọng, cần thiết để giữ gìn, trân trọng các giá trị của một nền thơ.
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thơ Triệu Kim Văn
1.4.1. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao
Đặt văn hóa dân tộc Dao trong văn hóa Việt Nam, có thể coi đó như mạch riêng giữa nguồn chung. Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em có mặt từ rất lâu đời ở Việt Nam. Mặc dù sống phân tán và trải qua nhiều cuộc thiên di trong lịch sử nhưng người Dao vẫn duy trì được bản sắc dân tộc mình. Trong tiến trình lịch sử, dân tộc Dao chẳng những góp phần vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hóa đặc sắc, làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng như các dân tộc thiểu số khác, người Dao có một kho tàng truyện cổ tích, truyện thơ... tạo nên truyền thống thơ ca khá phong phú và đặc sắc. Kho tàng ấy chính là nơi cất giữ những kết tinh giá trị tinh thần của con người dân tộc Dao. Và tất cả những nét văn hóa ấy ít nhiều ảnh hưởng đến sáng tác thơ của Triệu Kim Văn. Trong ý nghĩa đó, có thể thấy bản sắc văn hóa dân tộc Dao là căn cốt, là điểm tựa, là
mạch nguồn để Triệu Kim Văn kế thừa, từ đó thăng hoa thành những giá trị riêng đặc sắc trong thơ ca của mình.
Trong thơ của Triệu Kim Văn, có thể thấy những dấu ấn rõ nét của bản sắc văn hóa dân tộc Dao. Phong tục tập quán, những ngày lễ tết, lễ hội của người Dao trở thành âm hưởng vang vọng và ẩn sâu trong tâm thức của nhà thơ. Cùng với đó, nguồn cội văn học dân gian Dao như thành ngữ, tục ngữ, dân ca, truyện cổ đã trở thành một nguồn chất liệu vô giá để nhà thơ đúc rút và kết tinh nên những giá trị riêng đặc sắc. Đồng thời, đời sống lao động sản xuất gắn với các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Dao đã trở thành mạch nguồn cảm hứng sâu sắc và sống động để nhà thơ sáng tạo.
1.4.2. Truyền thống văn hóa - văn học quê hương Bắc Kạn
Bắc Kạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh
(Ca dao)
Có thể nói, Bắc Kạn là một miền quê vốn mang trong mình một bề dày truyền thống văn hóa, với những giá trị đặc trưng độc đáo. Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi đông bắc Việt Nam. Hồ Ba Bể là danh thắng thiên nhiên được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1996. Đây là khu bảo tồn đất ngập nước có tầm quan trọng của thế giới và là 1 trong 20 hồ nước ngọt đẹp nhất thế giới. Hội xuân Ba Bể được tổ chức vào tháng giêng âm lịch hàng năm, tạo thành một nét đẹp truyền thống đặc trưng cho Bắc Kạn. Căn cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn là một trong những khu căn cứ của chủ tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu di tích lịch sử Nà Tu, xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông nơi Hồ Chí Minh đã tặng lực lượng thanh niên xung phong 4 câu thơ vào năm 1951 "Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên". Bắc
ở đây chủ đạo là các hình thức m , p
như , hát giao duyên… dân gian truyền thống có t
... Tất cả những yếu tố đó góp thành một vùng quê Bác Kạn phong phú và độc đáo về các giá trị văn hóa. Đây là một mạch nguồn quý giá để tâm hồn thơ Triệu Kim Văn kế thừa, kết tinh, sáng tạo.
Trong ngôi nhà chung của nền văn học Việt Nam, mỗi địa phương vùng miền lại có những đặc trưng riêng. Văn học quê hương Bắc Kạn là nền văn học đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và có nhiều thành tựu. Đã có nhiều nhà văn là con em các dân tộc Bắc Kạn thuộc thế hệ tiên phong đặt nền móng cho nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nông Minh Châu có thể coi là nhà văn mở đường cho văn xuôi thiểu số nơi Việt Nam. Nông Viết Toại thành công ở cả ba mảng: sáng tác, khảo cứu, phê bình, nghiên cứu văn học dân gian. Nông Quốc Chấn không chỉ nổi tiếng với văn học Bắc Kạn mà còn ghi dấu với nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Tiếp theo là Dương Thuấn - một trong ba nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc nhất hiện nay: Y Phương, Mai Liễu, Dương Thuấn. Sau khởi điểm đổi mới 1986, Văn học Bắc Kạn đang cùng với văn học cả nước tiếp tục phát triển. Trong xu hướng đổi mới phát triển của thời kì mới, văn học Bắc Kạn xuất hiện thêm những cây bút trẻ hứa hẹn nhiều triển vọng: Dương Khâu Luông, Hoàng Chiến Thắng... Như vậy, văn học Bắc Kạn có bề dày nền tảng trong truyền thống, có sự kế thừa phát triển và tiếp nối trong hiện tại, có cơ sở để hi vọng những bước phát triển mới trong tương lai. Và chính từ cái nôi văn chương ấy, nhà thơ Triệu Kim Văn xuất hiện và trưởng thành, đóng góp thêm một giá trị quan trọng vào nền văn học tỉnh nhà.