sàng trải nghiệm‖, ―dễ mến‖ và ―tận tâm‖ cao hơn so với học sinh khối lớp 10, lớp
11. Có thể ở lớp cuối cấp, việc học tập cũng căng thẳng hơn năm đầu tiên, các em cần chuẩn bị cho kỳ thi Tốt nghiệp THPT Quốc Gia sắp tới nên có tâm trạng lo lắng nhiều hơn. Càng lớn thì thanh niên càng có nhiều mối quan hệ và lo toan hơn khi ở tuổi nhỏ. Đồng thời các em lớn tuổi hơn cũng có xu hướng biết quan tâm đến người khác, khoan dung, vị tha và chu đáo hơn các em tuổi nhỏ hơn.
3.2. Thực trạng về cách ứng phó với stress của học sinh trung học phổ thông
3.2.1. Đánh giá chung về cách ứng phó với stress của học sinh trung học phổ thông
Khi gặp stress, con người sử dụng nhiều cách ứng phó khác nhau. Việc lựa chọn cách ứng phó nào có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của mỗi người. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu khác nhau về cách thức ứng phó với stress, trong nghiên cứu này chúng tôi dựa vào cách phân loại ứng phó với stress của Tobin và các cộng sự (1988). Cách thức ứng phó sẽ phân chia thành 8 cách ứng phó khác nhau dựa trên hai tiêu chí lớn là tập trung vào vấn đề hoặc lảng tránh với stress. Sau đây là kết quả thu được:
Bảng 3.4. Cách ứng phó với stress của học sinh THPT
Cách ứng phó | ĐTB | ĐLC | |
1 | Cấu trúc lại nhận thức | 3,32 | 0,68 |
2 | Đổ lỗi bản thân | 3,22 | 0,77 |
3 | Mơ tưởng | 3,62 | 0,77 |
4 | Bộc lộ cảm xúc | 3,03 | 0,63 |
5 | Tìm kiếm hỗ trợ xã hội | 3,42 | 0,79 |
6 | Giải quyết vấn đề | 3,35 | 0,66 |
7 | Lảng tránh vấn đề | 2,97 | 0,69 |
8 | Cô lập bản thân | 3,21 | 0,78 |
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Đặc Điểm Của Mẫu Khách Thể Nghiên Cứu
- Phương Pháp Xử Lý Số Liệu Bằng Thống Kê Toán Học
- Thực Trạng Về Kiểu Nhân Cách Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông
- Cách Ứng Phó Với Stress Của Học Sinh Thptdưới Góc Độ Khối Lớp
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Cách Ứng Phó Với Stress Của Học Sinh Trung Học Phổ Thôngcó Kiểu Nhân Cách Khác Nhau
- Hệ Số Tương Quan Giữa Tinh Thần Lạc Quan Và Các Cách Ứng Phó Với Stress Của Học Sinh Thpt
Xem toàn bộ 239 trang tài liệu này.
Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn
Kết quả điều tra ở bảng 3.4 cho thấy, học sinh THPT sử dụng cách ứng phó
―tìm kiếm hỗ trợ xã hội‖ (ĐTB = 3,42; ĐLC = 0,79); ―giải quyết vấn đề‖ (ĐTB =
3,35; ĐLC = 0,66) và ―cấu trúc lại nhận thức‖ (ĐTB = 3,32; ĐLC = 0,68) với mức độ cao và trung bình. Kết quả này phần nào phản ánh tính tích cực và chủ động trong cách ứng phó với stress của học sinh THPT, vì đây là những cách ứng phó thuộc vào nhóm ứng phó tập trung vào vấn đề (problem-focused engagement) – nhóm được xem là mang lại nhiều hiệu quả, làm giảm mức độ stress triệt để nhất (Tobin và các cộng sự, 1988). Với cách thức ―tìm kiếm hỗ trợ xã hội‖, các biểu hiện ứng phó bằng hành động như “trò chuyện với những người thân thiết của mình” hay “tôi dành thời gian cùng bạn bè” và “yêu cầu một người bạn hay một người thân mà tôi kính trọng cho tôi lời khuyên” được học sinh sử dụng nhiều nhất (xem phụ lục tr.18-20). Điều này cho thấy việc nhờ bạn bè giúp đỡ hay người thân yêu khi bản thân mình gặp khó khăn và trò chuyện để giải quyết vấn đề là điều mà học sinh quan tâm nhất khi đối diện với các tình huống gây stress. Các nhà nghiên cứu thường cho rằng ―tìm kiếm hỗ trợ xã hội‖ là một cách ứng phó tích cực bởi nó có thể làm giảm mức độ stress khi con người có nơi tin cậy để được giãi bày và thông qua việc trò chuyện sẽ nhận được những lời khuyên thiết thực, từ đó sẽ tìm cách giải quyết vấn đề theo hướng tính cực (Lazarus, 1999). Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho kết quả tương tự. Em N.V.H học sinh lớp 11 trường THPT Đ.M (Hà Nội) tâm sự: ―Khi gặp khó khăn, stress trong cuộc sống emthường tìm bạn thân em hoặc bố m để chia sẻ vấn đề ấy cho họ nghe, họ hiểu và s nêu lên các ý kiến để em giải quyết vấn đề‖. Em N.T.M.H học sinh lớp 11 trường THPT L.Đ.B (Thanh Hóa) chia sẻ thêm: ―Khi có chuyện gì đó xảy ra, em thường gặp gỡ bạn của em để tâm sự, chia sẻ‖.
Tiếp theo nhóm ứng phó trên, ―giải quyết vấn đề‖ và ―cấu trúc lại nhận thức‖ cũng là những nhóm ứng phó hiệu quả khác được học sinh THPT sử dụng với tần suất tương đối cao. Một số biểu hiện ứng phó bằng hành động khá tích cực của loại ứng phó ―giải quyết vấn đề‖ như “giữ vững lập trường của mình và đấu tranh cho những điều mà mình muốn” hoặc “nỗ lực hết mình để giải quyết vấn đề”, “nỗ lực gấp đôi và hành động mạnh m hơn để giải quyết vấn đề” cũng được sử dụng khá nhiều. Bên cạnh đó, các biểu hiện ứng phó bằng suy nghĩ của cách ứng phó ―cấu
trúc lại nhận thức‖ như “tôi đã xem xét kỹ lưỡng vấn đề ấy nhiều lần và cuối cùng đã nhìn nhận sự việc theo một hướng khác tích cực hơn” hay “tôi tự hỏi mình điều gì mới thực sự quan trọng; tôi phát hiện ra rằng rốt cuộc mọi việc cũng không quá tồi tệ”, được học sinh thực hiện với tần suất tương đối nhiều.
Mặt khác, hệ số tương quan thuận giữa hai cách ứng phó ―giải quyết vấn đề‖ và ―cấu trúc lại nhận thức‖ (phụ lục tr.46) cho thấy học sinh khá thống nhất trong việc sử dụng hai cách ứng phó có tính hiệu quả này. Do thay đổi cách suy nghĩ và nhìn nhận lại vấn đề, con người bình tĩnh hơn, suy nghĩ hợp lý hơn và có tính xây dựng hơn nên con người dễ dàng tập trung vào giải quyết công việc hơn là vào những nỗi lo lắng vô ích (Phan Thị Mai Hương, 2007). Tóm lại, việc sử dụng khá thường xuyên các cách ứng phó ―giải quyết vấn đề‖ và ―cấu trúc lại nhận thức‖ cho thấy khả năng kiểm soát stress của học sinh THPT khi đối mặt với các tình huống gây căng thẳng, thông qua những cố gắng nhằm cải tạo suy nghĩ của bản thân mình hoặc cải tạo các tác nhân gây stress.
Qua kết quả phỏng vấn sâu, chúng tôi cũng nhận được những chia sẻ khá tích cực về hai cách ứng phó này của học sinh THPT như càng khó khăn chúng ta càng cố gắng nỗ lực hết mình thì s dẫn chúng ta đi đến thành công” (L.H.A, học sinh lớp 12 trường THPT Đ.M). Các kết quả này cho thấy khả năng đối đầu, không n tránh tác nhân gây stress của học sinh THPT. Theo tác giả Tobin và các cộng sư (1989) thì đây được xem là hai cách ứng phó mang lại nhiều hiệu quả, làm giảm mức độ stress triệt để nhất thông qua những nỗ lực nhằm loại bỏ tác nhân gây stress và nhìn nhận chúng dưới góc độ tích cực hơn bằng cách tìm kiếm những ý nghĩa tốt đẹp ngay trong các tình huống căng thẳng.
Ngoài ra, học sinh cũng lựa chọn cách ứng phó ―bộc lộ cảm xúc‖ của mình khi gặp phải các tình huống gây stress. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy “khóc một trận cho thỏa, tìm một nơi vắng vẻ để khóc thật to” là cách một số học sinh nữ giải tỏa cảm xúc căng thẳng còn các học sinh nam thì thường “ném một cái gì đó thật mạnh hoặc thậm chí chửi thề” để xua tan tâm trạng bức bối, khó chịu... Có thể nói dưới góc độ tâm lý, đây là một biểu hiện tích cực vì sự kìm n n cảm xúc khiến nguy cơ
mắc chứng bệnh trầm cảm liên quan đến stress tăng cao (Tobin và các cộng sự, 1989). Nhìn chung, các nhà nghiên cứu cho rằng, việc thể hiện cảm xúc ra bên ngoài là cách thức tương đối hiệu quả để ứng phó với stress. Tuy nhiên, trái ngược với kết quả nghiên cứu của Folkman và Moskowitz (2000), Tobin và các cộng sự (1989), trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy mối tương quan thuận giữa cách ứng phó bộc lộ cảm xúc với mức độ stress (bảng 3.14). Như vậy, việc bộc lộ cảm xúc một cách thái quá khi gặp tình huống gây stress không làm giảm thiểu trạng thái căng thẳng mà lại làm mức độ stress tăng cao. Kết quả tìm thấy này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của Williams và De Lisi (2000) và Nguyễn Phước Cát Tường (2010). Các tác giả này cũng kết luận rằng chỉ các cách ứng phó đối đầu tập trung vào vấn đề mới đem lại sự cải thiện sức khỏe tâm lý; trong khi đó, việc bộc lộ cảm xúc làm cho mức độ stress tăng cao. Tác giả Phan Thị Mai Hương (2007) cũng cho rằng, việc ―bộc lộ cảm xúc‖ là cách ứng phó tương đối hiệu quả, tuy nhiên, sự bộc lộ cảm xúc thái quá có thể khiến con người rơi vào tình trạng mất cân bằng tâm lý. Vì vậy, tính hiệu quả của cách ứng phó này còn tùy thuộc vào mức độ và cách bộc lộ.
Chúng ta có thể thấy rõ hơn kết quả này thông qua biểu đồ sau:
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
3.62
3.32
3.22
3.42
3.35
3.03
2.97
3.21
Cách ứng phó
Cấu trúc lại nhận thức
Đổ lỗi bản thân
Mơ Bộc lộ tưởng cảm xúc
Tìm kiếm hỗ trợ xã hội
Giải quyết vấn đề
Lảng tránh vấn đề
Cô lập bản thân
Biểu đồ 3.4. Cách ứng phó với stress của học sinh THPT
Kết quả khảo sát thực trạng cũng chỉ ra rằng, bên cạnh việc sử dụng các cách ứng phó tích cực trên, học sinh THPT còn sử dụng các cách ứng phó thuộc nhóm lảng tránh với tần suất cần được cảnh báo, đặc biệt là cách ứng phó ―mơ tưởng‖ (ĐTB = 3,62). Cách này được học sinh sử dụng thường xuyên nhất trong 8 cách ứng phó nêu ra. Những biểu hiện ứng phó bằng suy nghĩ điển hình cho cách mơ tưởng mà học sinh thực hiện là “tưởng tượng hay mơ ước sự việc s chuyển biến tốt đ p hơn”, “mong ước rằng tình trạng này sớm qua đi” và “mong ước giá như tôi đã có thể thay đổi những gì xảy ra”. Loại ứng phó ―mơ tưởng‖ đều được xem là hành vi trốn chạy, không dám đối diện với thực tế để cải tạo tác nhân gây stress theo hướng có lợi.
Những cách ứng phó kém hiệu quả như ―đổ lỗi bản thân‖ (ĐTB = 3,22), ―cô lập bản thân‖ (ĐTB = 3,21) ít được học sinh sử dụng hơn nhưng vẫn cần được cảnh báo. Trong cách ứng phó ―đổ lỗi cho bản thân‖, những biểu hiện bằng suy nghĩ như “đó là lỗi lầm của tôi và tôi cần phải chịu đựng hậu quả” hay “cá nhân phải chịu trách nhiệm về những khó khăn và thực sự quở trách chính mình " và “đã tự đổ lỗi cho chính mình” được học sinh thể hiện nhiều nhất. Thực chất, đây không phải là sự chấp nhận trách nhiệm một cách tích cực mà những lời phàn nàn, ca thán, thất vọng về bản thân. Học sinh không nhìn nhận đôi khi sự việc xảy ra mang tính khách quan, cá nhân không thể kiểm soát hết được nên đổ lỗi cho bản thân. Điều này khiến họ không thể tìm ra tác nhân thực sự của tình trạng stress để tìm cách tháo gỡ mà ngược lại chính việc dằn vặt, thất vọng về bản thân lại trở thành một tác nhân gây stress mới. Học sinh dễ trở nên nhụt chí, đầu hàng trước khó khăn. Đó là một vòng luẩn quẩn khép kín làm tình trạng stress thêm tăng cao.
Đặc biệt, với cách ―cô lập bản thân‖, mặt biểu hiện ứng phó bằng hành động phổ biến nhất là “giữ những cảm xúc và suy nghĩ cho riêng mình” và “cố gắng giữ những cảm xúc ấy”. Khi gặp khó khăn họ rút lui, né tránh giao tiếp với mọi người, đó được xem là những dấu hiệu ban đầu của hội chứng trầm cảm – hội chứng thường dẫn dắt con người đến việc có ý tưởng và thực hiện ý tưởng tự tử. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy khi cô lập bản thân, khả năng cá nhân tìm đến chất kích
thích để xoa dịu cảm giác căng thẳng là rất dễ xảy ra. “Khi gặp áp lực trong học tập và cuộc sống em chọn cách uống rượu và hút thuốc lá những hình thức này làm em giải tỏa nhiều căng thẳng” (L.M.D, học sinh lớp 12 trường THPT L.Đ.B).
―Lảng tránh vấn đề‖ thường được xem là k m hiệu quả nhất khi ứng phó với stress và hạ thấp khả năng ứng phó của cá nhân mặc dù rằng nó có thể giúp giảm nhẹ tạm thời mức độ stress; tuy nhiên, nếu k o dài nó sẽ khiến mức độ stress thêm trầm trọng vì không loại bỏ được tác nhân gây stress (Tobin và các cộng sự, 1988). Quan trọng hơn, kết quả phỏng vấn sâu cho thấy khi gặp khó khăn các em thường rút lui, tránh giao tiếp với mọi người, một số học sinh nữ thường tìm đến nơi im lặng để tĩnh tâm, nghe nhạc hoặc khóc… còn học sinh nam thì thỉnh thoảng hút thuốc và uống cà phê… Mặt khác, tìm sự tĩnh tại cho tâm hồn là điều cần thiết khi gặp căng thẳng, tuy nhiên, nếu sau đó, cá nhân không đối diện với thực tế để tìm hướng giải quyết thì mức độ stress lại càng gia tăng (Author, 1998). Đặc biệt, việc âm thầm chịu đựng thường không hiệu quả so với việc chia sẻ với người khác để tìm hướng giải quyết như Folkman và Moskowitz (2000). Bên cạnh đó, hệ số tương quan thuận giữa hai cách ứng phó ―lảng tránh vấn đề‖ và ―cô lập bản thân‖ (phụ lục tr.47) chỉ ra rằng việc cá nhân lảng tránh, không dám đối diện với sự thực có khuynh hướng tăng cao khi cá nhân tách mình ra khỏi xã hội.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh THPT sử dụng khá đa dạng và phong phú các loại ứng phó một cách cảm tính và may rủi. Bên cạnh việc sử dụng các cách ứng phó hiệu quả, học sinh cũng dùng cách ứng phó không hiệu quả như: mơ tưởng, đổ lỗi, cô lập bản thân, lảng tránh vấn đề, trong đó, đặc biệt là mơ tưởng. Cách này được sử dụng thường xuyên nhất trong 8 cách ứng phó được nêu ra. Sự không ổn định và nhất quán trong việc sử dụng các cách ứng phó với stress phần nào cho thấy, k năng ứng phó với stress của học sinh chưa thực sự cao. Việc rèn luyện k năng ứng phó với stress, vì thế, nên là một nội dung chủ đạo trong các chương trình rèn luyện k năng sống cho học sinh trong xã hội hiện đại.
3.2.2. Sự khác biệt về cách ứng phó với stress của học sinh trung học phổ thông
3.2.2.1. Sự khác biệt về cách ứng phó với stress của học sinh THPT dưới góc độ giới tính
Kết quả hiển thị ở bảng 3.5 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới về mức độ sử dụng cách ứng phó “giải quyết vấn đề”(t = 2,23; p < 0,05), “mơ tưởng” (t = -2,26; p < 0,05) và “bộc lộ cảm xúc” (t = -1,96; p < 0,05). Trong đó, học sinh nữ có cách ứng phó cao hơn học sinh nam ở cách ứng phó “mơ tưởng” và “bộc lộ cảm xúc”; còn học sinh nam có cách ứng phó cao hơn học sinh nữ ở cách ứng phó “giải quyết vấn đề”. Ngược lại, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ ở cách ứng phó “cấu trúc lại nhận thức”, “đổ lỗi bản thân”, “tìm kiếm hỗ trợ xã hội”, “lảng tránh vấn đề” và “cô lập bản thân”.
Bảng 3.5. Cách ứng phó với stress của học sinh THPTdưới góc độ giới tính
Cách ứng phó | Nam | Nữ | t | p | |||
ĐTB | ĐLC | ĐTB | ĐLC | ||||
1 | Cấu trúc lại nhận thức | 3.30 | 0.67 | 3.33 | 0.70 | -0.57 | 0.57 |
2 | Đỗ lỗi bản thân | 3.21 | 0.76 | 3.23 | 0.79 | -0.39 | 0.70 |
3 | Mơ tưởng | 3.54 | 0.78 | 3.68 | 0.75 | -2.26 | 0.02* |
4 | Bộc lộ cảm xúc | 2.98 | 0.63 | 3.08 | 0.62 | -1.96 | 0.04* |
5 | Tìm kiếm hỗ trợ xã hội | 3.43 | 0.76 | 3.42 | 0.83 | 0.16 | 0.87 |
6 | Giải quyết vấn đề | 3.41 | 0.67 | 3.29 | 0.64 | 2.23 | 0.03* |
7 | Lảng tránh vấn đề | 2.97 | 0.70 | 2.98 | 0.67 | -0.12 | 0.91 |
8 | Cô lập bản thân | 3.19 | 0.77 | 3.22 | 0.80 | -0.43 | 0.67 |
Ghi chú: *: p<0,05
Kết quả ở bảng trên cho thấy rằng, học sinh nữ có khả năng kiểm soát tình hình này khá cao. Theo nghiên cứu của các tác giả Felsten và Chen (1988) cùng các cộng sự của mình cho rằng: Vai trò và chức năng của nữ giới đang có những thay đổi tích cực trong xã hội hiện đại. Những yêu cầu và đặc trưng của xã hội mới khiến phụ nữ hiện đại trở nên năng động hơn và mạnh mẽ hơn. Trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, từ nghiên cứu khoa học đến chính trường, phụ nữ gặt hái khá nhiều thành công. Hơn nữa, khi nghiên cứu về những người phụ nữ châu Á nhiều tác giả như Yiu (2005), Chen và các cộng sự (2009) cho rằng dù yếu k m về thể chất, nhưng ý chí của phụ nữ châu Á rất mạnh mẽ, họ chịu thương, chịu khó hơn nên khả năng chịu áp lực trong mọi cuộc sống của họ khá lớn. Mặt khác, việc “bộc lộ cảm xúc” ra bên ngoài cũng được học sinh nữ thực hiện tốt hơn học sinh nam. Qua phỏng vấn sâu: “Khi gặp khó khăn em thường khóc một trận cho thỏa hoặc tìm một nơi vắng vẻ để hét thật to, có như vậy mới làm cho tinh thần của em phấn chấn hơn nhiều” (L.M.N HS lớp 11). Kết quả này tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu khác cho thấy học sinh nữ sử dụng chiến lược ứng phó tập trung vào cảm xúc nhiều hơn so với học sinh nam (Cabras & Mondo, 2017; Madhyastha, Latha & Kamath, 2014; Renk & Eskola, 2007). Điều này có thể là do học sinh nữ thường dễ chia sẻ cảm xúc với bạn bè, người thân hơn học sinh nam. Thêm vào đó, học sinh nữ cũng có nhiều chỗ dựa xã hội về mặt cảm xúc hơn trong khi học sinh nam có nhiều chỗ dựa xã hội về mặt công việc hơn.
Ngoài ra, kết quả kiểm định t.test trong nghiên cứu này cho thấy rằng học sinh nữ vẫn sử dụng cách ứng phó không hiệu quả như “mơ tưởng” thường xuyên hơn học sinh nam; trong khi đó học sinh nam lại sử dụng cách ứng phó “giải quyết vấn đề” thường xuyên hơn học sinh nữ. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các tính cách đặc trưng riêng cho nam giới như thường mạnh mẽ và quyết đoán hơn trong việc giải quyết vấn đề; còn nữ giới thì thường dễ xúc động, dễ bị tốn thương và thiếu thực tế... hơn nam giới. Vì thế, dù nỗ lực rất nhiều đề giải quyết vấn đề, nhưng trong một số trường hợp họ vẫn ảo tưởng, mơ mộng về những điều hão huyền sẽ đến hoặc than vãn, trách cứ bản thân. Trốn tránh thực tế và dằn vặt bản thân khiến các học sinh nữ không thể giải quyết triệt để được vấn đề. Đây cũng là lý do tại sao mức độ stress của họ cao hơn học sinh nam.
3.2.2.2. Sự khác biệt về cách ứng phó với stress của học sinh THPT dưới góc độ khối lớp
X t theo góc độ khối lớp, kết quả ở bảng 3.6 cho thấy nhìn chung không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các khối lớp 10, 11 và lớp 12 của học sinh THPT