Tiến Trình Dạy Học Môn Khoa Học Theo Hướng Vận Dụng Phương Pháp Btnb

ngày. Chương trình chú trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập và kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Với những đặc điểm trên, chương trình môn Khoa học có ưu thế cho việc vận dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học. Cụ thể như sau: nội dung chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp nội dung khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học về sức khỏe. Nội dung chương trình thiết thực, gần gũi với cuộc sống xung quanh các em, thuận lợi cho việc tìm kiếm các nguyên vật liệu để HS thao tác, thí nghiệm. Cấu trúc đồng tâm của chương trình thường trang bị cho HS những kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, có sự nối tiếp và liên quan đến nhau rất ưu thế khi vận dụng phương pháp BTNB bởi phương pháp có đặc điểm nổi bật đó là dạy học dựa trên vốn kiến thức đã có của HS. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu HS còn được hình thành và phát triển các kĩ năng giản đơn trong nghiên cứu khoa học như: Quan sát, dự đoán, giải thích và vận dụng vào thực tế ngoài cuộc sống. Như vậy, những đặc điểm trên của chương trình môn học rất phù hợp và thuận lợi cho việc vận dụng phương pháp BTNB vào dạy học môn học.

1.4.3. Tiến trình dạy học môn Khoa học theo hướng vận dụng phương pháp BTNB

1.4.3.1. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB

Phương pháp BTNB đề xuất một tiến trình sư phạm ưu tiên xây dựng những tri thức (hiểu biết, kiến thức) bằng khai thác, thực nghiệm và thảo luận.

Đó là thực hành khoa học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ không phải phát biểu lại các kiến thức có sẵn xuất phát từ sự ghi nhớ thuần túy.

HS tự mình thực hiện các thí nghiệm, các suy nghĩ và thảo luận để hiểu được các kiến thức cho chính mình.

HS học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động; HS học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi vấn; HS học tập bằng hỏi đáp với các HS cùng

lớp (theo nhóm làm việc 2 người hoặc với nhóm lớn), bằng cách trình bày quan điểm cá nhân của mình, đối lập với quan điểm của bạn và về các kết quả thực nghiệm để kiểm tra sự đúng đắn và tính hiệu lực của nó.

GV tùy theo tình hình, từ một câu hỏi của HS có thể đề xuất những tình huống cho phép tìm tòi một cách có lí lẽ; GV hướng dẫn HS chứ không làm thay; GV giúp đỡ HS làm sáng tỏ và thảo luận quan điểm của mình, đồng thời chú ý tuân thủ việc nắm bắt ngôn ngữ; GV cho HS phát biểu những kết luận có ý nghĩa từ các kết quả thu được, đối chiếu chúng với các kiến thức khoa học; GV điều hành hướng dẫn HS tập luyện để tiến bộ dần.

Các buổi học ở lớp được tổ chức xung quanh các chủ đề theo hướng tiến trình có thể đồng thời giúp HS tiếp thu được kiến thức, hiểu được phương pháp tiến hành và rèn luyện được ngôn ngữ viết và nói. Một thời lượng đủ cần thiết cho phép nắm bắt, tái tạo và tiếp thu một cách bền vững nội dung kiến thức.

Căn cứ vào các cơ sở trên, ta có thể làm rõ tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học BTNB theo 5 bước cụ thể sau đây:

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề

Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu đối với HS. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).

Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môđun kiến thức mà HS sẽ được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu

của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của GV càng dễ thực hiện thành công.

Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu

Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Bước này khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức. Hình thành biểu tượng ban đầu, GV có thể yêu cầu HS nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu HS trình bày biểu tượng ban đầu, GV có thể yêu cầu nhiều hình thức biểu hiện của HS, có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.

Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi - nghiên cứu

Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học (hay môđun kiến thức).

Ở bước này GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp để giúp HS so sánh, từ đó giúp HS đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục biểu tượng của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của HS nhằm giúp HS đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của HS gặp khó khăn.

Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS, đề nghị các em đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó.

Sau khi HS đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp HS không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu thích hợp, GV có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án.

Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu là các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực hành - thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu…

Bước 4: Tiến hành tìm tòi - nghiên cứu

Từ các phương án thực hành tìm tòi - nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể làm cho mô hình, hoặc cho HS quan sát tranh vẽ.

Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần lượt các thí nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để HS rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng).

Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức

Sau khi thực hiện thực hành tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học.

1.4.3.2.Tiến trình dạy học môn Khoa học bằng phương pháp BTNB

Tiến trình dạy học môn Khoa học bằng phương pháp BTNB có thể theo trình tự dưới đây:

Nhiệm vụ của HS

Nhiệm vụ của GV

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề

- Quan sát, suy nghĩ.

- GV chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa học đặt ra.

- Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi,

nghiên cứu…

Bước 2:

Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh

- Bộc lộ quan niệm ban đầu nêu những suy nghĩ từ đó hình thành câu hỏi, giả thuyết... bằng nhiều cách nói, viết, vẽ.

Đây là bước quan trọng đặc trưng của PP BTNB.

- GV cần: Khuyến khích HS nêu những suy nghĩ…bằng nhiều cách nói, viết, vẽ.

- GV quan sát nhanh để tìm các hình vẽ khác biệt.

- GV không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các

quan niệm sai.

Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết

kế phương án thực nghiệm

a. Đề xuất câu hỏi

- Từ các khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, HS đề xuất câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.

- GV giúp học sinh đề xuất câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.

- Kiểm soát lời nói, cấu trúc câu hỏi, chính xác hoá từ vựng của học sinh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Tổ chức dạy học môn Khoa học ở các trường Tiểu học thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo hướng vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột - 6

Các bước

Nhiệm vụ của HS

Nhiệm vụ của GV


b. Đề xuất phương án thực nghiệm


- Bắt đầu từ những vấn đề khoa học được xác định, HS xây dựng giả thuyết.

- HS trình bày các ý tưởng của mình,đối chiếu nó với những bạn khác.

- GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi đó.

- GV ghi lại các cách đề xuất của học sinh (không lặp lại).

- GV nhận xét chung và quyết định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn.

(Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay đề xuất phương án cụ thể. Chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác

biệt giữa các ý kiến).

Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi

- nghiên cứu

HS hình dung có thể kiểm chứng các giả thuyết bằng:

- Thí nghiệm (Ưu tiên thí nghiệm trực tiếp trên vật thật).

- Quan sát

- Điều tra

- Nghiên cứu tài liệu.

- HS sinh ghi chép lại vật liệu thí nghiệm, cách bố trí, và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay hình vẽ).

- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí nghiệm sau đó mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm

- GV bao quát và nhắc nhở các nhóm chưa thực hiện, hoặc thực hiện sai…

- GV tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ

- GV khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng giả thuyết mà HS đề xuất.

- GV không chỉnh sửa cho

học sinh

Các bước

Nhiệm vụ của HS

Nhiệm vụ của GV


- HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên

cứu tài liệu).

- GV tập hợp các điều kiện thí nghiệm nhằm kiểm chứng các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất.

Thu nhận các kết quả và ghi

chép lại để trình bày

- GV giúp HS phương pháp

trình bày các kết quả.

Bước 5:

Kết luận và hợp thức

hoá kiến thức


HS kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết mà mình đưa ra.

*Nếu giả thuyết sai: thì quay lại bước 3.

* Nếu giả thuyết đúng:

Thì kết luận và ghi nhận chúng.

- GV động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình nghiên cứu.

- GV giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết luận.

- Sau khi thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi dần dần được giải quyết, các giả thuyết dần dần được kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chính xác một cách khoa học.

- GV có trách nhiệm tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức bài học.

- GV khắc sâu kiến thức bằng cách đối chiếu biểu

tượng ban đầu.

Các bước

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến vận dụng phương pháp BTNB trong dạy học môn Khoa học

1.5.1. Năng lực phương pháp của GV

Để vận dụng thành công phương pháp BTNB trong dạy học đòi hỏi GV tiểu học phải có năng lực sử dụng phương pháp này, mỗi GV tiểu học phải là người có kiến thức về phương pháp, kiến thức về chuyên môn vững để có thể thiết kế kế hoạch bài học theo định hướng vận dụng phương pháp BTNB. Tổ chức lên lớp theo đúng tiến trình của kế hoạch bài học đã nêu, trong đó sẽ có khâu tổ chức, hướng dẫn HS tiến hành thí nghiệm, tìm tòi, khám phá để phát hiện ra kiến thức mới đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị, đầu tư thời gian, nguyên vật liệu cho HS để các thí nghiệm được thành công.

Để phát huy được hiện quả của phương pháp GV cần có năng lực dự đoán các tình huống và câu trả lời của HS có thể có trong bài học; dự đoán các tình huống sư phạm có thể có trong tiến trình lên lớp để luôn là người chủ động đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động dạy - học.

1.5.2. Đặc điểm nhận thức của HS

Trình độ nhận thức và khả năng diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của HS không đồng đều, HS chưa có thói quen sử dụng “Vở thí nghiệm” trong quá trình học. Mà với việc học theo PP BTNB thì việc ghi chép vào vở thí nghiệm là rất cần thiết. Chính vì năng lực và trình độ nhận thức của mỗi em là khác nhau nên trong quá trình học đặc biệt là học môn Khoa học không phải HS nào cũng biết nêu những câu hỏi sát với nội dung của bài học. Có thể sẽ có những câu hỏi quá xa hoặc quá rộng với kiến thức của bài. Một số câu hỏi không phù hợp còn làm ảnh hưởng đến tiến trình lên lớp của GV.

Trong mỗi tiết học sự tương tác giữa HS - HS, GV - HS, HS - GV là rất cần thiết. Trong thực tế thì không phải HS nào cũng có khả năng giao tiếp tốt và tự tin khi giao tiếp. Khi phát biểu ý kiến của mình nhiều em còn rụt rè, không dám tranh luận với mọi người để bảo vệ ý kiến của mình… Muốn HS

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí