Về Công Tác Lập Quy Hoạch Xây Dựng Nông Thôn Mới


xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền. Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được hình thành từ Trung ương xuống địa phương. Các bộ, ngành đã ban hành 25 loại văn bản hướng dẫn địa phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, quy hoạch nông thôn mới. Đến nay, 100% số huyện đã thành lập Ban chỉ đạo cấp huyện; 100% số xã đã thành lập Ban chỉ đạo cấp xã; Trên 80% số xã ngoài việc thành lập Ban chỉ đạo cấp xã còn thành lập Ban phát triển nông thôn, bản để chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (Lê Nguyễn, 2016).

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”. Ngày 08/6/2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.

Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội.

1.2.3.2. Về nguồn vốn cho Chương trình

Trong 3 năm 2011 - 2013, Chương trình đã huy động được 485 nghìn tỷ đồng, trong đó:

- Ngân sách nhà nước các cấp bố trí 161.938 tỷ đồng chiếm 33,4%, trong đó:

+ Vốn hỗ trợ trực tiếp cho chương trình là 50.048 tỷ đồng (10,3%), gồm ngân sách Trung ương 5.469,16 tỷ đồng (1,1%) và ngân sách địa phương các cấp 44.579,15 tỷ đồng (9,2%);

+ Vốn lồng ghép 111.889,7 tỷ đồng (23,1%).

- Vốn tín dụng 231.378,1 tỷ đồng, chiếm 47,7%.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

- Các doanh nghiệp hỗ trợ 29.900,91 tỷ đồng, chiếm 6,0%.

- Dân đóng góp 62.841,07 tỷ đồng, chiếm 13,0%.

Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020 - 5


Ngày 25/01/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 195/QĐ- TTg phân bổ nguồn vốn trái phiếu cho năm 2014 - 2016 là 15.000 tỷ đồng, trong đó bố trí cho năm 2014 với 4.765 tỷ đồng. Hiện nay, các địa phương đang tích cực hoàn chỉnh phương án phân bổ để sớm triển khai thực hiện ngay từ Quí I/2014.

- Mặt hạn chế:

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nguồn ngân sách bố trí cho chương trình còn thấp so với nhiệm vụ đề ra; Đầu tư của doanh nghiệp trong nước và đầu tư của nước ngoài vào nông thôn rất thấp; Thiếu cơ chế lồng ghép hiệu quả các chương trình, dự án trên địa bàn nông thôn.

1.2.3.3. Về công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới

Theo báo cáo tổng kết 10 năm của Bộ xây dựng, BXD nhận định “Tiêu chí quy hoạch là Tiêu chí số 1 trong các giai đoạn triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM”. Sau 10 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 mặc dù chất lượng đồ án quy hoạch nhiều nơi chưa đạt được theo yêu cầu, nhưng bước đầu là cơ sở tốt cho các xã lập các đề án xây dựng nông thôn mới. Số xã có quy hoạch trên tổng số xã của cả nước đã tăng từ 23,1% năm 2010 lên 83,5% vào năm 2013 và đến nay đã đạt 99,7%”.

Nhìn chung chất lượng công tác quy hoạch ở nhiều nơi còn thấp. Nhiều xã mới dừng ở quy hoạch chung, thiếu cụ thể hóa cần thiết. Nhiều đề án nặng về tính toán đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa chú trọng đúng mức tới phát triển sản xuất, văn hóa, bảo vệ môi trường, thiếu giải pháp thực hiện, tính toán huy động nguồn lực còn thiếu tính thực tiễn. Tuy vậy, cũng đã đáp ứng được yêu cầu là cơ sở cho việc xây dựng các Đề án xây dựng NTM xã trong giai đoạn trước mắt. Phục vụ tốt cho công tác xây dựng NTM theo Chương trình MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020.


1.2.3.4. Về kết quả thực hiện các tiêu chí của Chương trình NTM tại các địa phương

Ngày 08/12/2015, Hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2015 đã được tổ chức với những kết quả rất to lớn, bộ mặt nông thôn đã đổi thay tích cực, phong trào xây dựng nông thôn mới đã được người dân hưởng ứng và trở thành phong trào rộng khắp cả nước. Từ chỗ số đông còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước đã chuyển sang chủ động, tự tin tham gia tích cực vào xây dựng NTM.

Tính đến hết tháng 11/2015, cả nước có 1.298 xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM; số tiêu chí bình quân/xã là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2 tiêu chí so với 2010); số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên (xuất phát điểm dưới 3 tiêu chí, nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là 183 xã (Lê Nguyễn, 2016).

Ở cấp huyện, đã có 11 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận đạt chuẩn NTM là: huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, thị xã Long Khánh (Đồng Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TPHCM), Đông Triều (Quảng Ninh), Hải Hậu (Nam Định), Đơn Dương (Lâm Đồng), Đan Phượng (TP. Hà Nội), thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang).

Mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đã đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010) (Lê Nguyễn, 2016).

Các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quy hoạch nông thôn mới:

Một là, năng lực của các chủ thể tham gia nhiệm vụ quy hoạch từ cấp xã, đến đơn vị trực tiếp lập quy hoạch là các công ty tư vấn, và phê duyệt là cấp huyện còn hạn chế về tổ chức và trình độ. Tại thời điểm triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới vào năm 2010, trong 181 nghìn cán bộ cấp xã có 0,1% không biết chữ, 48% chưa qua đào tạo, 80% không biết sử dụng máy tính. Có đơn vị tư vấn đảm nhận một lúc quy hoạch nhiều xã nên việc khảo


sát hiện trạng, định hướng phát triển còn rất hạn chế, dập khuôn, dẫn đến quy hoạch không phù hợp với quy hoạch vùng, hệ thống giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước, xử lý môi trường... giữa các xã thiếu thống nhất, mạnh xã nào xã ấy làm. Vì vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra đầu bài, thẩm định, xét duyệt cũng như quản lý sau quy hoạch dẫn đến chất lượng hạn chế, hiệu quả thấp (Ban chỉ đạo chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới trung ương, 2013).

Hai là, chi phí cho công tác quy hoạch xây dựng nông thôn là rất cao, từ giai đoạn khảo sát, thu thập số liệu, đến giai đoạn lập nhiệm vụ, lập quy hoạch, duyệt quy hoạch, do đó cần khoản kinh phí thực hiện khá lớn nhưng trong thực tế định mức chi phí thực hiện lại rất thấp và không có hệ số dành cho các vùng, miền (xã, vùng đồng bằng khác xa xã của vùng núi cao, ven biển...). Trong khi muốn lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án lại vướng về thủ tục "giải ngân".

Ba là, các tiêu chí về kiến trúc nhà ở nông thôn, công trình công cộng, bảo tồn di tích, văn hóa, dân tộc phù hợp với đặc điểm của từng vùng còn thiếu cụ thể, gây khó cho công tác lập quy hoạch, nhất là đối với các xã có đặc điểm khác nhau rất lớn: xã ven đô thậm chí trong nội đô, xã có làng nghề phát triển, xã thuần nông, xã vùng đồng bằng, xã vùng ven biển, xã vùng trung du, xã vùng núi cao... Từ đó đặt ra các yêu cầu quy hoạch rất khác nhau, cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chất lượng quy hoạch nông thôn còn nhiều hạn chế.

Bốn là, quá trình triển khai thực hiện quy hoạch nông thôn mới, nhiều văn bản quy phạm pháp luật có những điểm chồng chéo, mâu thuẫn chưa phù hợp thực tế cả về nội dung chuyên môn đến điều kiện nhân lực và kinh phí thực hiện, nhưng lại chậm bổ sung sửa đổi. Thí dụ về tiêu chí giao thông có tới ba "hướng dẫn": Quyết định 315/QÐ - BGTVT ngày 23/2/2011 quy định đường AH là 3,5 m lề đường, đường liên xã mặt đường rộng 3 m. Sổ tay


hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đường trục xã rộng tối thiểu 5 - 6 m, đường trục nông thôn lòng đường tối thiểu 4 - 5 m.

Năm là, về bản chất của quy hoạch xây dựng NTM chính là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp xã gắn với yêu cầu cụ thể trong bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Để quy hoạch có tính khả thi cao thì vai trò của người dân trong việc xây dựng mục tiêu, quy hoạch và kế hoạch là hết sức quan trọng. Việc hiện nay nhiều đơn vị tư vấn thiếu nghiên cứu và kinh nghiệm về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển sản xuất tại các địa phương trong chương trình xây dựng nông thôn mới đang bộc lộ nhiều bất cập khi chúng ta có tới 70% dân số sống bằng nghề nông nghiệp (Hoàng Tuấn Hiệp, Nguyễn Quang Dũng, 2012).

1.2.4. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện Chương trình nông thôn mới

Trong thời gian qua việc thực hiện Chương trình vẫn còn một số hạn chế: Tiến độ triển khai Chương trình còn chậm so với mục tiêu; việc triển khai vốn trái phiếu Chính phủ còn chậm, việc giám sát, đánh giá kết quả sử dụng vốn còn hạn chế; nhận thức của một bộ phận cán bộ các cấp về những nội dung thiết yếu của Chương trình chưa đầy đủ, việc quan tâm chỉ đạo cấp ủy, chính quyền ở một số nơi chưa sát thực tế, dẫn đến một số nơi còn huy động vốn đóng góp của dân quá mức; môi trường nông thôn có xu hướng ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, năng lực ứng phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Vì vậy bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì là:

- Xây dựng nông thôn mới phải có quyết tâm chính trị cao, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể, chủ động, sáng tạo, sâu sát, liên tục của các cấp ủy, chính quyền, nhất là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và của Ban Chỉ đạo để huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc cùng với sự quan tâm của toàn xã hội. Điều này có ý nghĩa quan trọng dẫn dắt và thúc đẩy thực hiện Chương trình;


- Khẳng định và tạo điều kiện về cơ chế chính sách để người dân thực sự làm chủ thể, phát huy vai trò tích cực của các thôn, bản, ấp trong xây dựng Nông thôn mới là yếu tố quyết định cho sự thành công của Chương trình;

- Nắm vững mục tiêu và hệ thống tiêu chí nông thôn mới để có cách làm chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và yêu cầu bức thiết của người dân ở từng địa phương; phát huy cao nguồn lực tại chỗ; lồng ghép các chương trình, dự án; lựa chọn, tập trung hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên tạo ra sự chuyển biến thực tế trên diện rộng, tạo niềm tin vào Chương trình;

- Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng công cuộc xây dựng NTM vẫn còn những bất cập trong công tác quy hoạch làng xã, kiến trúc nhà ở, nhà công cộng, công tác bảo tồn phát huy di sản kiến trúc cũng như việc quản lý công tác xây dựng… Điều này đòi hỏi các cấp ngành Trung ương, địa phương, các nhà quản lý, đặc biệt quan trọng là cộng đồng cư dân nông thôn khắc phục tồn tại, góp sức chung tay xây dựng nông thôn Việt Nam ngày một khang trang, kiến trúc đẹp lên trong sự phát triển bền vững.


Chương 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Nội dung nghiên cứu

- Khái quát điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

- Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới của huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

- Tình hình thực hiện phương án quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Tản Hồng và xã Yên Bài huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Đánh giá về mức độ phù hợp của phương án quy hoạch xây dựng nông thôn mới.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

Phương pháp được sử dụng trên cơ sở chọn điểm nghiên cứu đại diện cho 30 xã trên địa bàn huyện. Nghiên cứu đã chọn ra 2 xã đại diện có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; cụ thể chọn 01 xã đại diện cho nhóm các xã đã về đích (xã Tản Hồng) và 01 xã đại diện cho nhóm xã chưa về đích nông thôn mới, còn nhiều khó khăn trong quá trình quy hoạch, xây dựng nông thôn mới (xã Yên Bài).

2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

Đây là phương pháp được áp dụng nhằm thu thập những số liệu đã được công bố từ các nguồn có sẵn tại các cơ quan, Ban, ngành có liên quan.

- Thu thập các tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Ba Vì tại UBND cùng các Phòng, Ban chức năng tại huyện Ba Vì.

- Thu thập các tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của hai xã điểm: Tản Hồng và Yên Bài.


- Thu thập kế hoạch, đề án, các báo cáo tổng hợp, số liệu thống kê về tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới của thành phố Hà Nội, của huyện Ba Vì và của các xã trong huyện.

2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

Phương pháp áp dụng để thu thập các số liệu chưa được công bố thông qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp các đối tượng liên quan bằng bộ phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn. Mục đích thu thập số liệu phục vụ cho việc nhận định, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới được chính xác. toàn diện và khách quan hơn.

- Đối tượng: Điều tra ngẫu nhiên 160 hộ dân (mỗi xã 80 hộ dân) và 21 cán bộ tham gia vào công tác tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới tại huyện và 02 xã điểm là xã Tản Hồng và Yên Bài thông qua phiếu điều tra.

- Tiêu chí điều tra:

+ Đối với hộ dân: Nguồn thông tin mà người dân được tiếp cận để biết đến chương trình xây dựng nông thôn mới (Chính quyền xã, các tổ chức đoàn thể, phương tiện thông tin đại chúng); Sự tham gia của người dân vào công tác lập và giám sát, quản lý việc xây dựng nông thôn mới tại địa phương; Hình thức chủ yếu mà người dân tham gia như góp tiền, ngày công lao động, hiến đất... Tác động của xây dựng nông thôn mới với đời sống của người dân; Những khó khăn của địa phương và đề xuất của người dân góp phần thực hiện tốt chương trình xây dựng nông thôn mới;

+ Đối với cán bộ quản lý: (xã Tản Hồng 06 phiếu điều tra gồm Chủ tịch xã, Bí thư, Địa chính và 3 trưởng thôn; xã Yên Bài 08 phiếu điều tra gồm Chủ tịch xã, 2 Địa chính và 5 trưởng thôn). Các hình thức tuyên truyền, vận động để chương trình xây dựng nông thôn mới đến được với người dân mà địa phương đã áp dụng; Các nguồn vốn xây dựng nông thôn mới ở địa phương; vai trò của các tổ chức đoàn thể trong thực hiện xây dựng nông thôn mới; Khó khăn và đề xuất của cán bộ quản lý góp phần thúc đẩy việc thực hiện xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 04/09/2024