Những Ưu Điểm Của Vận Dụng Phương Pháp Btnb Trong Dạy Học

HS tiểu học phát triển về thể chất chậm hơn so với tuổi mẫu giáo. Sự phát triển thể chất của HS tiểu học là tiền đề quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các em có thể lĩnh hội tri thức phù hợp với độ tuổi để hình thành, phát triển tâm lí, nhân cách và hoàn thiện bản thân mình.

Ở lứa tuổi tiểu học, hoạt động của các em là sự kết hợp hài hòa giữa hoạt động học tập, hoạt động vui chơi và hoạt động xã hội.

Mối quan hệ giữa đặc điểm tâm, sinh lí HS cuối cấp tiểu học với việc vận dụng phương pháp BTNB trong dạy học môn Khoa học

Ở bậc Tiểu học, đặc biệt là HS lớp 4, 5 tâm, sinh lí của các em đang được hình thành và phát triển về tất cả mọi mặt. HS bắt đầu được khám phá, tìm kiếm và lĩnh hội những tri thức khoa học. Môi trường thay đổi đòi hỏi HS phải tập trung chú ý liên tục, chuyển từ hiếu kì, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Các em bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bộc phát để chuyển thành tính kỉ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết. HS bước đầu có những biểu hiện của tính tích cực học tập. Vì vậy, nội dung và phương pháp dạy học phải dựa trên sự phát triển tâm, sinh lý của HS để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Việc đưa các PPDH mới phù hợp với đặc điểm, trình độ nhận thức của HS đang ngày càng được nâng cao và chú trọng. Trong đó, phương pháp BTNB là một phương pháp có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhận thức của HS. Khi thực hiện dạy và học theo phương pháp này các em có điều kiện được tiếp xúc trực tiếp với các đồ dùng trực quan sinh động phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí của lứa tuổi tiểu học, từ đó kích thích trí tò mò, khám phá để tìm ra tri thức khoa học cho HS.

1.3.2. Những đặc điểm của phương pháp BNTB

Đặc điểm cơ bản của phương pháp BTNB là quá trình dạy học được tiến hành dựa trên tìm tòi - nghiên cứu. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, HS đóng vai trò trung tâm trong quá trình dạy - học, tích cực, chủ động

lĩnh hội kiến thức, GV là người hướng dẫn, cố vấn, giúp đỡ HS trong quá trình lĩnh hội kiến thức thông qua các hoạt động. Phương pháp này ngoài việc giúp HS lĩnh hội kiến thức còn rèn luyện các kĩ năng và phát triển ngôn ngữ nói và viết cho HS.

Có thể phân biệt phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác dựa trên một số dấu hiệu dưới đây:

Dạy học được tiến hành dựa trên vốn kiến thức hiện có của HS. Vận dụng BTNB chú trọng đến vốn kiến thức ban đầu của HS. Quan niệm ban đầu là những biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của HS về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện tượng. Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của HS, là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của HS, còn gọi là các "khái niệm ngây thơ". Thường thì các quan niệm ban đầu này chưa tường minh, thậm chí còn mâu thuẫn với các giải thích khoa học mà HS sẽ được học. Biểu tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, kiến thức đã được học mà là quan niệm của HS về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học kiến thức đó. Tạo cơ hội cho HS bộc lộ biểu tượng ban đầu trước khi tiếp cận kiến thức mới là một đặc điểm quan trọng của phương pháp dạy học BTNB.

Dạy học là quá trình tổ chức cho HS tương tác với sự vật, hiện tượng qua đó học sinh phát hiện vấn đề, lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng. Vận dụng PP BTNB trong dạy học đặc biệt chú trọng đến trải nghiệm, thực hành của HS. HS được thực hành, làm thí nghiệm trong quá trình học để tìm tòi và khám phá ra tri thức khoa học mới. Vấn đề đặt ra trước HS có thể là qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp HS phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm hoặc thử làm lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, HS luôn luôn phải động não, trao đổi với các HS khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. Con đường tìm ra kiến thức của HS cũng đi lại gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học.

Những sự vật, hiện tượng được GV lựa chọn để HS quan sát đều là những sự vật, hiện tượng gần gũi với chính cuộc sống hàng ngày của các em, dễ quan sát và dễ tìm hiểu.

Tổ chức dạy học môn Khoa học ở các trường Tiểu học thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo hướng vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột - 4

Trong quá trình tìm tòi tri thức qua bài học, HS sử dụng một công cụ để ghi lại, diễn đạt lại những suy nghĩ ban đầu, những phán đoán và cả những kết luận khoa học đó là vở thí nghiệm. Đây còn là công cụ GV kết hợp với quá trình quan sát của mình trong mỗi giờ học để nhìn nhận được quá trình tiến bộ của HS trong học tập. Bản thân HS cũng có thể dựa vào những ghi chép của mình để nhận ra sự tiến bộ của bản thân sau mỗi giờ học và sau cả một quá trình dài hơn.

Khi sử dụng thì mỗi HS được làm việc nhóm, tăng cường khả năng tương tác giữa HS -HS. Tìm tòi - nghiên cứu cần có sự hợp tác mới mang lại hiệu quả cao. Ngay từ việc thảo luận, hoạt động theo nhóm HS cũng đã có cơ hội làm những việc như một nhà khoa học: Chia sẻ ý tưởng, tranh luận, suy nghĩ về những gì cần làm và phương pháp giải quyết vấn đề đặt ra.

Trong quá trình thảo luận, HS được tự do phát biểu ý kiển của mình, Biết kết hợp với ý kiến của người khác để đi đến kết luận cuối cùng. Phát triển khả năng giao tiếp tự tin, lập luận logic cho HS.

Sử dụng những dự án học tập có tính lâu dài theo nhiều tuần học, nhiều chủ đề. Các hoạt động GV đưa ra phải được tổ chức sao cho đảm bảo mức độ tiến bộ dần trong học tập của HS. Việc xây dựng các hoạt động này trên cơ sở chương trình, SGK, nhưng cũng để HS có sự tự chủ, sự độc lập và sáng tạo.

Mỗi chủ đề có thể thực hiện trong nhiều tuần nhưng ít nhất phải có 02 tiết học về chủ đề đó. Các dự án học tập phải được đảm bảo tính liên tục của các hoạt động và các phương pháp sư phạm dựa trên tổng thể chương trình.

Vận dụng PP BTNB trong dạy học đòi hỏi sự đa dạng về nguồn lực tham gia như gia đình và cộng đồng được khuyến khích ủng hộ và tham gia vào các hoạt động trên lớp. Các nhà khoa học được huy động vào giúp đỡ các hoạt động của lớp học theo khả năng chuyên môn của mình. Theo từng vùng và khu vực, ở các cơ sở đào tạo, GV được cung cấp kiến thức về sư phạm và giáo dục.

Thông qua các trang web của chương trình, GV có thể tham khảo các modul bài học hay những ý tưởng xây dựng hoạt động, trao đổi và được giải đáp cho những câu hỏi hay thắc mắc nảy sinh trong quá trình giảng dạy. Bên cạnh đó, GV cũng có thể tham gia vào các chương trình xây dựng nội dung chung cùng dồng nghiệp, các chuyên gia và các nhà khoa học.

1.3.3. Những ưu điểm của vận dụng phương pháp BTNB trong dạy học

1.3.2.1. HS được quan sát và tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng gần gũi với cuộc sống xung quanh

Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em được thao tác, thực hành trên những sự vật, hiện tượng.

Sự vật có thể được hiểu là bao gồm cả những sự vật thật như Thực vật, đồ vật hoặc thậm chí là động vật sống (lá cây, bông hoa, quả bóng, con chuột,... Và tiến hành các thí nghiệm với nó và cả những sự vật mà HS không thể tiếp xúc được như Mặt trăng, Mặt trời, bầu trời,…

Đối với HS tiểu học vốn sống của các em còn ít, vì vậy các sự vật hiện tượng càng gần gũi với HS càng kích thích sự tìm hiểu, khuyến khích sự tìm tòi của các em.

1.3.3.2. Phát triển ở HS năng lực lập luận, tư duy phản biện trong quá trình học tập

Vận dụng phương pháp này nhấn mạnh sự khuyến khích HS suy nghĩ đưa ra những lập luận để bảo vệ cho ý kiến cá nhân của mình; nhấn mạnh vai trò hoạt động nhóm trong học tập. Với phương pháp dạy học này, HS được học tập trong nhóm như: nhóm cùng làm thí nghiệm, nhóm trao đổi, nhóm

thảo luận,... Khi trao đổi với những thành viên khác, các em nảy sinh những mâu thuẫn trong nhận thức hoặc mâu thuẫn giữa kiến thức, kĩ năng thông thường, các em đã có với những tình huống thưc tiễn khi quan sát sự vật, hiện tượng.

1.3.3.3. Tiến trình dạy học theo hướng nâng cao dần về mức độ nhận thức của HS

Hoạt động dạy học được tổ chức theo tiến trình sư phạm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.

Mức độ nhận thức được hình thành theo quy luật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Để HS hiểu sâu sắc kiến thức, yêu cầu của sự hình thành kiến thức cũng theo quy tắc này. Từ hiểu biết cơ bản, rồi nâng dần lên theo cấp độ tương ứng với khả năng nhận thức của HS sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức hiệu quả và chắc chắn.

1.3.3.4. Phương pháp được sử dụng trong thời gian lâu dài

Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.

Một chủ đề khoa học được giảng dạy trong nhiều tuần sẽ giúp cho HS có thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng và hình thành kiến thức. Điều này cũng có lợi cho HS trong việc khắc sâu, ghi nhớ kiến thức thay vì giảng dạy ồ ạt, nhồi nhét kiến thức, "cưỡi ngựa xem hoa".

Các kiến thức trong chương trình bậc học, lớp học đều có sự kế thừa, liên quan với nhau. GV khi thiết kế hoạt động dạy học cần chú ý đến tính kế thừa của các vấn đề đã được đưa ra ở cấp học dưới. Càng có sự trao đổi thông tin, thống nhất giữa GV các bậc học, các lớp thì hoạt động dạy học càng có hiệu quả.

1.3.3.5. Trang bị cho HS những kĩ năng giản đơn trong nghiên cứu khoa học

Học sinh bắt buộc có mỗi em một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em.

Vở thí nghiệm là một đặc trưng quan trọng của phương pháp BTNB. Ghi chép trong vở thí nghiệm được thực hiện bởi từng cá nhân HS theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em. Trong mỗi tiết học, HS tiến hành ghi chép những biểu tượng ban đầu , những dự đoán kết quả thí nghiệm và những câu trả lời của bản thân mình. Sau khi giải quyết xong vấn đề những ghi chép đó có thể đúng hoặc sai. HS sẽ chỉnh sửa và ghi chép lại một cách chính xác.Thông qua vở thí nghiệm GV cũng có thể tìm hiểu sự tiến bộ trong nhận thức hay biết mức độ nhận thức của HS để điều chỉnh hoạt động dạy học, hàm lượng kiến thức cho phù hợp. Ghi chép trong vở thí nghiệm không những giúp HS làm quen với công tác nghiên cứu khoa học mà còn giúp HS rèn luyện ngôn ngữ.

Vì hoạt động học tập của HS được diễn ra trong trải nghiệm, thực hành và thực tiên x thao tác với đồ vật hoặc quá trình tương tác với các sự vật, hiện tượng nên người học hình thành được các kỹ năng quan sát, so sánh, suy luận, khái quát hóa,… thu thập thông tin lý giải cho vấn đề khóa học, thực tiễn.

1.3.3.6.Phát triển ngôn ngữ cho HS

Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.

Ở đây, nguyên tắc 6 nhấn mạnh mối liên hệ giữa dạy học kiến thức và rèn luyện ngôn ngữ (nói và viết) cho HS. Sự hiểu kiến thức nội tại bên trong HS sẽ được biểu hiện ra bằng ngôn ngữ khi HS phát biểu, trình bày, viết. GV cần quan tâm, tôn trọng và lắng nghe HS cũng như yêu cầu các HS khác lắng nghe ý kiến của bạn mình. Các thuật ngữ khoa học, khái niệm khoa học cũng được hình thành dần dần, giúp HS nắm vững và hiểu sâu sắc.

1.3.3.7. Có sự phối hợp tham gia của cộng đồng

Các gia đình hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.

Ưu điểm này nhấn mạnh vai trò của gia đình và xã hội trong việc phối kết hợp với nhà trường để thực hiện tốt quá trình giáo dục HS. Trong đó, gia

đình, khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học như: cùng con thực hiện các thí nghiệm, bài tập ở nhà; cùng con chuẩn bị các đồ dùng, nguyên vật liệu trước khi mang đến lớp…

Ở địa phương, các cơ sở khoa học (trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,.. ) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.

Các trường học có thể mời các chuyên gia, các nhà khoa học, các giáo sư tới nói chuyện với HS trong lớp học hay giúp đỡ GV trong việc thiết kế hoạt động dạy học (kiến thức, thí nghiệm). Điều này là thực sự cần thiết đối với các GV tiểu học vì trong chương trình đào tạo không được học nhiều về các kiến thức khoa học.

Ở địa phương, các cơ sở đào tạo giáo viên (Trường cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm) giúp các giáo viên về kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy. Các đối tác khoa học (trường Đại học, Cao đẳng, viện nghiên cứu…) được huy động để giúp đỡ các hoạt động của lớp học theo khả năng của mình.Nguyên tắc này nhấn mạnh sự hợp tác giúp đỡ về mặt sư phạm, phương pháp, kinh nghiệm của các giảng viên, chuyên gia nghiên cứu về phương pháp BTNB giúp đỡ GV thiết kế giảng dạy, tư vấn giải đáp những vướng mắc của GV.

1.3.3.7. GV có sự trao đổi với nhau

Giáo viên có thể tìm thấy trên Internet các website có nội dung về những môđun (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc. Họ cũng có thể tham gia những hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.

1.3.4. Một số kĩ thuật dạy học trong dạy học theo hướng vận dụng phương pháp BTNB

1.3.4.1. Kĩ thuật tổ chức lớp học

Thực hiện dạy học môn Khoa học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hình thức tổ chức lớp học theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện lợi cho việc tổ

chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. Sao cho đảm bảo phù hợp với sĩ số HS, tầm nhìn của các HS được lưu ý, cung cấp đủ ánh sáng và đảm bảo khoảng cách phù hợp giữa các nhóm khi thảo luận.

1.3.4.2. Kĩ thuật chia nhóm

Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học. Để tạo hứng thú và tạo cơ hội cho HS, GV cần lựa chọn đa dạng về hình thức chia nhóm. Có rất nhiều hình thức khác nhau: Chia theo số điểm danh, màu sắc, sở thích, tháng sinh, cùng sở thích, cùng mảnh ghép,

1.3.4.3. Kĩ thuật tổ chức hoạt động nhóm

Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh.

Mỗi nhóm sẽ có một nhóm trưởng để điều khiển và đại diện nhóm trình bày vấn đề, một thư kí dể ghi chép, các thành viên còn lại tích cực, chủ động trao đổi với các bạn.Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên quan sát các nhóm để bao quát,thu thập thông tin đánh giá HS và giúp đỡ kịp thời khi các em gặp khó khăn.

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí