Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Hoạt Động Dạy Học Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực Người Học Ở Trường Trung Học Cơ

Tóm lại, chúng tôi hiểu hoạt động dạy học là hoạt động người giáo viên tổ chức và điều khiển hoạt động học tập của học sinh nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của học sinh.

Hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên cho học sinh ở trường trung học cơ sở là hoạt động mà người giáo viên tổ chức điều khiển hoạt động học tập cho học sinh giúp học sinh tự lĩnh hội kiến thức về lĩnh vực khoa học tự nhiên nhằm tạo ra sự phát triển toàn diện cho người học.

1.2.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực

Năng lực

- Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê biên soạn: “1/Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. 2/ Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao [23].

- Theo “Từ điển Tâm lí học”: “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí độc đáo hay các phẩm chất tâm lí của cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động xác định”.[11]

- Theo Québec- Ministere de l’Education: “Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống phong phú của cuộc sống.

- Theo F.E Weinert: “Năng lực thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kỹ năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”[30].

- Theo P.A Rudich: “Năng lực và tính chất tâm- sinh lý của con người chi phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cũng như hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất định”. Định nghĩa này đã mở rộng khái niệm năng lực bao gồm các điều kiện tâm - sinh lý chi phối các hoạt động của con người [26].

- Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Năng lực là những đặc điểm tâm lí cá biệt, tạo thành điều kiện qui định tốc độ, chiều sâu, cường độ của việc tác động

vào đối tượng lao động”. Định nghĩa này coi năng lực là những đặc điểm tâm lí cá biệt trong một hoạt động cụ thể, tạo thành điều kiện qui định tốc độ, chiều sâu, cường độ tác động và đối tượng lao động [17].

Từ các định nghĩa trên cho thấy: Khi nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào đó. Muốn hoạt động đạt hiệu quả thì cá nhân thực hiện hoạt động ấy phải có những phẩm chất tâm lí nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Thực tế cho thấy những người phát triển tâm lí bình thường nào cũng có khả năng tiếp thu một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tối thiểu. Song trong những điều kiện như nhau thì những người khác nhau có thể tiếp thu những tri thức, kĩ năng , kĩ xảo đó với nhịp độ khác nhau. Đặc biệt với một số hoạt động đặc thù như hoạt động văn học, nghệ thuật, thể thao chỉ có một số người có năng lực nhất định mới có thể đạt kết quả. Do đó, khi xét bản chất của năng lực, trước hết cần chú ý: 1/Sự khác nhau giữa người này với người kia về hiệu quả hoạt động; 2/Năng lực tạo điều kiện cho việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo dễ dàng chứ không phải bản thân tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

Từ việc phân tích các quan niệm của các tác giả trong và ngoài nước, ta có thể hiểu: Năng lực là khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức, kĩ năng, thái độ để giải quyết hiệu quả một tình huống hoặc một hoạt động thực tiễn xác định.

1.3. Một số vấn đề lý luận về hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực người học ở trường trung học cơ sở

Dạy học theo tiếp cận năng lực chính là quá trình người giáo viên chú ý nhiều đến việc hình thành năng lực cho người học thông qua việc tổ chức hướng dẫn học tập của giáo viên như cung cấp phần kiến thức được lựa chọn phù hợp với đối tượng người học, rèn kỹ năng từ đó hình thành năng lực cho người học và năng lực sẽ hỗ trợ lại khả năng tiếp thu kiến thức cho người học, phát triển kỹ năng và tiếp tục năng lực người học được nâng lên.

Phát triển năng lực người học chính là trang bị cho học sinh kiến thức kỹ năng căn bản từ đó hình thành năng lực hành động, học sinh sẽ chú ý đến chuyện làm và ít chú ý đến tri thức, dựa trên trí thức cơ bản phát triển kỹ năng và hình thành năng lực.

Để hình thành năng lực cho người học chúng ta phải lựa chọn nội dung, kiến thức cơ bản, có vai trò chủ đạo để giảm nội dung phải truyền tải; hình thành năng lực là không cần nhồi nhét kiến thức, như vậy giáo viên phải có cách dạy và yêu cầu học sinh biết vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề, các tình huống trong đời sống.

Việc dạy học định hướng năng lực được thể hiện ở trong các thành tố quá trình dạy học như sau:

1.3.1. Về mục tiêu dạy học

Ngoài các yêu cầu về mức độ như nhận biết, tái hiện kiến thức cần có những mức độ cao hơn như vận dụng kiến thức trong các tình huống, các nhiệm vụ gắn với thực tế. Các mục tiêu này đạt được thông qua các hoạt động trong và ngoài nhà trường.

1.3.2. Về nội dung dạy học

Cần xây dựng các hoạt động, chủ đề, nhiệm vụ đa dạng gắn với thực tế.

Dạy học theo quan điểm định hướng phát triển năng lực học sinh không chỉ giới hạn trong tri thức và kĩ năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực.

Học nội dung

chuyên môn

Học phương

pháp - chiến lược

Học giao tiếp -

Xã hội

Học tự trải

nghiệm - đánh giá

- Các tri thức chuyên môn (các khái niệm, phạm trù, quy luật,

mối quan hệ…).

- Lập kế hoạch học tập, kế hoạch làm việc.

- Các phương

pháp nhận thức

- Làm việc trong nhóm.

- Tạo điều kiện cho sự hiểu biết

về phương diện

- Tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu.

- Xây dựng kế hoạch phát triển cá nhân.

- Đánh giá, hình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.

Quản lý hoạt động dạy học môn khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 4

- Ứng dụng, đánh giá chuyên môn.

chung: thu thập, xử lý, đánh giá, trình bày thông tin.

- Các phương pháp chuyên môn.

xã hội.

- Học cách ứng xử, tinh thần trách nhiệm, khả năng giải quyết xung đột.

thành các chuẩn mực giá trị, đạo đức và văn hóa, lòng tự trọng…

Năng lực

chuyên môn

Năng lực

phương pháp

Năng lực xã hội

Năng lực

nhân cách

- Các kĩ năng chuyên môn.


Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là mô hình dạy học nhằm phát triển tối đa năng lực của người học, trong đó người học tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn, của người dạy. Quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực với phẩm chất người học trên nguyên lý học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn.

1.3.3. Về phương pháp dạy học

Ngoài cách dạy học thuyết trình cung cấp kiến thức cần tổ chức hoạt động dạy học thông qua trải nghiệm, giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy thông thường, qua một hoạt động học tập, học sinh sẽ được hình thành và phát triển không phải một loại năng lực mà là được hình thành đồng thời nhiều năng lực hoặc nhiều năng lực thành tố mà ta không cần (và cũng không thể) tách biệt từng thành tố trong quá trinh dạy học.

1.3.4. Về kiểm tra đánh giá

Về bản chất đánh giá năng lực cũng phải thông qua đánh giá khả năng vận dụng kiến thức và kĩ năng thực hiện nhiệm vụ của HS trong các loại tình huống

phức tạp khác nhau. Trên cơ sở này, các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia khác nhau đề ra các chuẩn năng lực trong giáo dục tuy có khác nhau về hình thức, nhưng khá tương đồng về nội hàm. Trong chuẩn năng lực đều có những nhóm năng lực chung. Nhóm năng lực chung này được xây dựng dựa trên yêu cầu của nền kinh tế xã hội ở mỗi nước. Trên cơ sở năng lực chung, các nhà lí luận dạy học bộ môn cụ thể hóa thành những năng lực chuyên biệt.

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh chú trọng đến phát triển ba phẩm chất, 8 năng lực chung của người học để người học trở thành người tự chủ, sống có trách nhiệm, có thực tế.

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh cho phép cá nhân hóa việc học trên cơ sở mô hình năng lực người học sẽ bổ sung thiếu sót của bản thân, tạo điều kiện quản lý chất lượng, nhấn mạnh vận dụng kiến thức của người học theo kết quả đầu ra.

Năng lực người học cần đạt được chính là cơ sở để xác định các mục tiêu, nội dung hành động, phương pháp dạy học mà người giáo viên cần căn cứ vào đó để tiến hành các hoạt động giảng dạy và giáo dục.

1.3.5. Môn Khoa học tự nhiên

Khoa học tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu về thể giới tự nhiên, nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển chung nhất của giới tự nhiên. Kiến thức của lĩnh vực KHTN có thể đến từ các phân môn khác nhau như Sinh học, Vật lý, Hóa học, Khoa học Trái Đất và không gian, thiết kế theo các chủ đề, thể hiện các nguyên lý vận động, phát triển chung của giới tự nhiên

1.3.5.1. Vị trí môn Khoa học tự nhiên trong chương trình giáo dục phổ thông Trong chương trình giáo dục phổ thông mới

Môn Khoa học tự nhiên là môn học mới (so với chương trình giáo dục hiện hành) là môn học phát triển từ môn Khoa học ở các lớp 4, 5 (cấp tiểu học). Khoa học tự nhiên là môn học bắt buộc ở các lớp 6, 7, 8 và 9 của trung học cơ sở. Ở trung học phổ thông, Khoa học tự nhiên được tách ra thành 3 môn học riêng rẽ là Vật lý, Hoá học và Sinh học. Khoa học tự nhiên sẽ được dạy trong 35 tuần / năm học, tổng số 140 tiết / năm học, mỗi tuần dạy 4 tiết. 2.

1.3.5.2. Mục tiêu chương trình

Cùng với các môn học khác, môn Khoa học tự nhiên góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông được nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Môn Khoa học tự nhiên góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất của học sinh: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm; hình thành và phát triển các năng lực chung như: năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo; góp phần hình thành và phát triển một số năng lực khác như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực công nghệ, năng lực tin học; góp phần phát triển năng lực học tập suốt đời. Môn Khoa học tự nhiên góp phần chủ yếu trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh; đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh phẩm chất tự tin, trung thực, khách quan, tình yêu thiên nhiên, nắm được, tôn trọng và biết vận dụng các quy luật của tự nhiên, để từ đó biết ứng xử với thế giới tự nhiên phù hợp với 2 yêu cầu phát triển bền vững. Khoa học tự nhiên hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tìm hiểu tự nhiên: (1) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, (2) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, (3) vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với thế giới tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Ở THCS, nội dung giáo dục KHTN tích hợp các kiến thức, kỹ năng về Vật lý, Hóa học và Sinh học. Để thực hiện các nội dung này, cấu trúc nội dung mn KHTN gồm các chủ đề phân mn (Vật lý, Hóa học, Sinh học) và các chủ đề liên môn, nhằm hình thành nhận thức về các nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên, vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của xã hội và bước đầu vận dụng được kiến thức KHTN trong sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Theo đó, nội dung môn KHTN sẽ được thiết kế theo các chủ đề, phản ánh quy luật chung nhất của giới tự nhiên. Kiến thức ở mỗi phân môn khoa học được sử dụng làm nguyên liệu/ví dụ thể hiện cho các nguyên lý chung đó. Bên cạnh đó, các chủ đề liên môn được xây dụng

dựa trên tiếp cận logic cuộc sống, nội dung được lựa chọn cần phải liên quan mật thiết và có ý nghĩa đối với đời sống con người. Vì vậy, GV muốn dạy học cho học sinh môn KHTN theo tiếp cận năng lực thì bản thân người giáo viên dạy môn KHTN ngoài các năng lực chung cần có năng lực dạy học theo các chuyên đề, NL thiết kế được các kế hoạch bài học/chủ đề đảm bảo các yêu cầu của bài học theo tiếp cận năng lực.

1.3.5.3. Nội dung giáo dục

Chương trình môn Khoa học tự nhiên được xây dựng dựa trên sự kết hợp của 3 trục cơ bản là: Chủ đề khoa học - Các nguyên lý/khái niệm chung của khoa học - Hình thành và phát triển năng lực. Trong đó, các nguyên lý/khái niệm chung sẽ là vấn đề xuyên suốt, gắn kết các chủ đề khoa học của chương trình. Chủ đề khoa học chủ yếu của chương trình môn Khoa học tự nhiên: + Chất và sự biến đổi của chất: chất có ở xung quanh ta, cấu trúc của chất, chuyển hoá hoá học các chất. + Vật sống: Sự đa dạng trong tổ chức và cấu trúc của vật sống; các hoạt động sống; con người và sức khoẻ; sinh vật và môi trường; di truyền, biến dị và tiến hoá.

+ Năng lượng và sự biến đổi: năng lượng, các quá trình vật lý, lực và sự chuyển động.

+ Trái Đất và bầu trời: chuyển động trên bầu trời, Mặt Trăng, hệ Mặt Trời, Ngân Hà, hóa học vỏ Trái Đất, một số chu trình sinh - địa - hóa, Sinh quyển. 3 chủ đề được sắp xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, có kết hợp ở mức độ nhất định với cấu trúc đồng tâm, đồng thời có thêm một số chủ đề liên môn, tích hợp nhằm hình thành các nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên. Các nguyên lý chung của khoa học tự nhiên trong chương trình môn Khoa học tự nhiên: Tính cấu trúc; Sự đa dạng; Sự tương tác; Tính hệ thống; Sự vận động và biến đổi Các nguyên lý chung, khái quát của khoa học tự nhiên là nội dung cốt lõi của môn Khoa học tự nhiên. Các nội dung vật lý, hoá học, sinh học, Trái Đất và bầu trời được tích hợp, xuyên suốt trong các nguyên lý đó. Các kiến

thức vật lý, hoá học, sinh học, Trái Đất và bầu trời là những dữ liệu vừa làm sáng tỏ các nguyên lý tự nhiên, vừa được tích hợp theo các logic khác nhau trong hoạt động khám phá tự nhiên, trong giải quyết vấn đề công nghệ, các vấn đề tác động đến đời sống của cá nhân và xã hội.

1.4. Một số vấn đề quản lý hoạt động dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở

1.4.1. Khái niệm

Quản lý hoạt động dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh là quá trình nhà quản lý tác động có mục đích, có kế hoạch đến người giáo viên dạy môn KHTN nhằm phát triển tối đa năng lực của học sinh, giúp học sinh tự hoàn thành nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn, của giáo viên trên nguyên lý học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn.

1.4.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh

a. Quản lý thực hiện chương trình dạy học môn Khoa học tự nhiên theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Theo luật giáo dục, “Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục: quy định, chuẩn kiến thức, kĩ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông” (Điều 29, mục II - Luật Giáo dục - 2005). Như vậy đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đánh giá chất lượng giáo dục, kể cả việc đổi mới cách xây dựng chương trình, từ quan niệm cho đến quy trình kĩ thuật và đổi mới những hoạt động quản lý cả quá trình này.

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Khoa học tự nhiên được xây dựng và phát triển trên nền tảng của Vật lý, Hoá học, Sinh học và Khoa học Trái Đất. Đây là môn học bắt buộc yêu cầu học sinh phải đạt được 3 phẩm chất,

Xem tất cả 174 trang.

Ngày đăng: 18/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí