Cơ Sở Lí Luận Và Thực Tiễn Của Việc Sử Dụng Padlet Nhằm Phát Triển Năng Lực Tự Học Phần Lịch Sử Thế Giới Cận Đại Lớp 11 Ở Trường Phổ

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: luận văn tập trung vào nghiên cứu việc sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh.

- Về hình thức tổ chức dạy học: luận văn tập trung vào bài học nội khóa.

- Về địa bàn khảo sát và thử nghiệm: tiến hành khảo sát các giáo viên lịch sử tại một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, khảo sát và thử nghiệm đối với học sinh khối 11 trường THPT Hoa Lư A tỉnh Ninh Bình.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về vấn đề sử dụng Padlet trong DHLS để phát triển năng lực tự học cho học sinh, luận văn nhằm khảo sát được thực trạng, từ đó tìm ra biện pháp hướng tới việc nâng cao chất lượng DHLS tại trường THPT Hoa Lư A – Ninh Bình thông qua công cụ dạy học Padlet.

Từ việc nghiên cứu và thiết kế nội dung bài học trên Padlet, tôi hi vọng có thể tạo ra một môi trường học tập mới với học sinh, đồng thời là cơ hội để tôi được chia sẻ với đồng nghiệp của mình một công cụ dạy học mới, từ đó thôi thúc cả giáo viên và học sinh dùng các công nghệ dạy học để nâng cao hiệu quả dạy học trong môn Lịch sử.

Mặt khác bản thân tôi còn có mong muốn góp một phần nhỏ làm thay đổi tư duy nhận thức người học và đồng nghiệp môn học khác cho rằng môn Lịch sử là môn học “phụ”, với nội dung kiến thức hết sức khô khan, khó nhớ... đưa lịch sử đến gần với học sinh hơn, kích thích các em chủ động, sáng tạo hơn trong học tập.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

- Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.

+ Tìm hiểu các vấn đề cơ bản liên quan đến Padlet: Padlet là gì, ưu điểm và hạn chế của Padlet, khả năng ứng dụng Padlet trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng, những thuận lợi và khó khăn, những lưu ý khi sử dụng công cụ Padlet trong quá trình dạy học.

Sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 cho học sinh trường Trung học phổ thông Hoa Lư A - Ninh Bình - 3

+ Tìm hiểu các vấn đề cơ bản liên quan đến dạy học phát triển tự học cho học sinh.

- Tìm hiểu thực tiễn việc sử dụng CNTT (trong đó có Padlet) tại trường phổ thông nói chung và trường THPT Hoa Lư A nói riêng nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh.

- Tìm hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa lịch lịch sử lớp 11 phần lịch sử thế giới hiện đại.

- Đề xuất quy trình thiết kế và một số biện pháp sử dụng Padlet trong DHLS nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh.

- Thử nghiệm sư phạm tại trường THPT Hoa Lư A.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về lịch sử, giáo dục lịch sử trong trường THPT.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Nghiên cứu lý thuyết

Đọc và phân tích các tài liệu lịch sử, các tài liệu về lý luận và PPDH, các tài liệu về tâm lý học, tài liệu về lý luận dạy học bộ môn Lịch sử; các bài báo, bài viết, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

5.2.2. Nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp quan sát: quan sát thái độ của học sinh trong giờ học qua Padlet, đánh giá năng lực tự học của học sinh 11 ở trường THPT Hoa Lư A.

- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: sử dụng phiếu khảo sát, phiếu phỏng vấn tìm hiểu thực trạng sử dụng CNTT để phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh.

- Phương pháp thử nghiệm: thử nghiệm các biện pháp sử dụng Padlet trong DHLS thế giới cận đại lớp 11 tại trường THPT Hoa Lư A tỉnh Ninh Bình.

- Phương pháp thống kê toán học: xử lý, thống kê, phân tích số liệu thống kê được trong quá trình thử nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp đã đề ra.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: Đóng góp lí luận về việc sử dụng Padlet trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng ở trường THPT nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh.

- Ý nghĩa thực tiễn: đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, GV môn Lịch sử và bản thân tác giả trong quá trình DHLS ở trường THPT.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học phần lịch sử thế giới cận đại lớp 11 ở trường phổ thông.

Chương 2: Một số biện pháp sử dụng Padlet nhằm phát triển năng lực tự học phần lịch sử thế giới cận đại lớp 11 tại trường THPT Hoa Lư A – Ninh Bình. Thử nghiệm sư phạm.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PADLET ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm về Padlet

Padlet là một ứng dụng internet miễn phí, được cấu trúc thành 1 trang như một bức tường ảo”, cho phép người dùng trình bày bất cứ một chủ đề nào đó một cách dễ dàng. Người dùng có thể trình bày nội dung (hình ảnh, video…) theo ý tưởng của mình ở bất cứ vị trí nào trên trang Padlet.

Padlet được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là trong giáo dục. Giáo viên có thể sử dụng Padlet như một công cụ dạy học trực tuyến trong đó có khả năng tích hợp nhiều ứng dụng khác, công cụ khác nhằm đạt được mục tiêu giáo dục cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ và dần phát triển năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực tự học.

Padlet được coi là một trong những ứng dụng được sử dụng phổ biến trong các trường học trên thế giới, nhất là ở các nước tiên tiến. Với ưu thế của mình, Padlet tạo sự tương tác giữa người dạy và người học, tương tác giữa người học với người học, cùng nhau chia sẻ kiến thức kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu hoặc học tập…

1.1.1.2. Khái niệm về “năng lực

Khái niệm năng lực có nguồn gốc Latinh “competentia” có nghĩa là “gặp gỡ”. Trong tiếng Anh, khái niệm năng lực hay khả năng tương ứng với các thuật ngữ “competence”, “ability” hay “capability”.

Có rất nhiều định nghĩa về “năng lực ” và khái niệm này thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu này, xin được nêu ra một số khái niệm như sau.

Theo quan điểm của những nhà tâm lý học, “năng lực” là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động, nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân mới đóng vai trò quan trọng, năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có.

Theo từ điển của Đại học Harvard thì “năng lực”, theo thuật ngữ chung nhất, là “những thứ” mà một người phải chứng minh có hiệu quả trong việc làm, vai trò, chức năng, công việc, hoặc nhiệm vụ. Theo cách hiểu này, “năng lực” không thể đánh giá bằng những gì ở bên trong con người như kiến thức, kĩ năng, thái độ mà chỉ có thể đánh giá được thông qua hành động. Năng lực được xác định thông qua các nghiên cứu về việc làm và vai trò công việc. .

Trong nhiều nghiên cứu gần đây về đào tạo theo năng lực (Competency Based Training - BT) Nguyễn Đức Trí và một số tác giả dịch 2 thuật ngữ competence và competency đều là NLTH theo nghĩa lắp ghép với từ performance - sự thực hiện trong cụm từ “perform a task” để nhấn mạnh đến ý nghĩa “thực hiện/thực hành”. Từ đó, định nghĩa NLTH đều gắn với “khả năng” như NLTH là khả năng thực hiện được các nhiệm vụ, công việc trong nghề theo các tiêu chuẩn đặt ra đối với từng nhiệm vụ, công việc đó [20; tr.151].

Theo tác giả Weinert (2001), “Năng lực được thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”.

Tác giả người Mĩ McLagan hiểu năng lực “là một tập hợp những kiến thức, thái độ, kĩ năng hoặc cách chiến lược tư duy mà tập hợp này là cốt lõi và quan trọng cho việc tạo ra những sản phẩm đầu ra quan trọng”.

Tác giả Meier và Nguyễn Văn Cường thì cho rằng “năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong các tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động”[24; tr.39].

Theo từ điển tiếng Việt “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”.

Tuy các tác giả đưa ra những nhận định khác nhau về năng lực nhưng có một điểm chung đó là: nói đến năng lực là nói đến khả năng thực hiện, khả năng hành động, biết làm chứ không chỉ là biết và hiểu.

Từ nhiều khái niệm trên, có thể hiểu “Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống”.

1.1.1.3. Khái niệm về năng lực tự học

Cũng giống như năng lực, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm năng lực tự học (NLTH) của nhiều tác giả, ở nhiều khía cạnh nghiên cứu và trong từng thời kì khác nhau.

Trong lịch sử giáo dục, tự học là một khái niệm được đề cập rất sớm thường được sử dụng với ý nghĩa là người học tự giác, chủ động thực hiện các hoạt động học tập của mình. Khái niệm NLTH là khả năng người học thực hiện các hoạt động tự học. Do vậy khi nói đến tự học và năng lực tự học một số tác giả coi đó là hai khái niệm có chứa cùng một nội dung. Trong nghiên cứu của mình khi xác định tổng quan vấn đề NLTH chúng tôi cũng xuất phát từ khái niệm tự học và đôi lúc cũng được hiểu như là NLTH.

Ở Việt Nam hoạt động tự học được chú ý từ thời phong kiến khi mà giáo dục chưa phát triển. NLTH được ghi nhận ở từng cá nhân kiệt xuất, tự học thành tài. Đến thời kì thực dân Pháp đô hộ giáo dục nước ta vẫn còn rất hạn chế, phương pháp dạy học vẫn chỉ là truyền thụ kiến thức một chiều, người học chỉ cần học thuộc lòng, cần ghi nhớ chính xác nội dung mà không cần quan tâm đến việc vận dụng kiến thức đó trong cuộc sống như thế nào. Vấn đề tự học, NLTH vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên phát động nghiên cứu và nêu cao tấm gương về tinh thần tự học cũng như phương pháp dạy học. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Bác viết

“… phải lấy tự học làm cốt”. Thời kì ấy tự học không phải chỉ là định hướng cho con người vượt qua khó khăn của đời sống hiện tại mà còn là chú trọng nâng cao trình độ của bản thân để đáp ứng với thế giới ngày càng đổi mới và nhân dân Việt Nam ngày càng tiến bộ. Tự học được xác định là một nhiệm vụ chính trị.

Từ những năm 90 của thế kỉ XX những nghiên cứu về tự học đã được nhiều tác giả trình bày trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công trình tâm lí học, giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn. Một số tác giả có công trình tiêu biểu là tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Trịnh Quốc Lập, Thái Duy Tuyên, Trần Bá Hoành…

Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Học và dạy cách học; Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như thế nào cho tốt). Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội dung học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau” [Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như thế nào cho tốt]

Như vậy, các tác giả tuy trình bày quan điểm theo cách khác nhau nhưng nhìn chung đều cho rằng NLTH không đơn thuần là việc người học thu nhận được gì từ kiến thứ, kĩ năng, thái độ mà nười học còn có khả năng vận dụng những điều đã được học đó vào trong thực tế, có khả năng xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống. NLTH là những khả năng và kĩ xảo của người học được vận dụng từ bài học sang thực tế. Vì vậy NLTH không phải chỉ hình thành từ những bài vở, chương trình môn học hay những lí thuyết đơn thuần mà nó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố từ gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Để đánh giá NLTH của người học thì người dạy phải tạo ra cơ hội, trao cơ hội cho người học để người học được trải nghiệm, được thử thách. Khi đó, người học sẽ vận dụn những gì đã có của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh đó. Người nghiên cứu sẽ đánh giá được khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị tình cảm của người học. Định nghĩa về tự học cũng được thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào bối cảnh nghiên cứu và trọng tâm nghiên cứu của từng tác giả.

Như vậy, tự học không có nghĩa chỉ là việc học ngoài giờ lên lớp, mà tự học ở đây còn là hoạt động học diễn ra trên lớp dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của người thầy, người học phải động não, tìm tòi, phát hiện, phân tích, khái quát để chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng chính tư duy của mình. Có thể nói, khả năng tự học luôn tiềm ẩn trong mỗi con người và điều quan trọng trong dạy học là giáo viên phải biết khơi dậy khả năng này của học sinh. Như vậy để hoạt động học có hiệu quả, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động của học sinh chuyển sang tự học.

1.1.1.4. Khái niệm về phát triển năng lực tự học trong dạy học lịch sử.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển” là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong, nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”

Như vậy, khái niệm phát triển là chỉ sự thay đổi từ cái cũ sang cái mới theo chiều hướng tích cực của sự vật, hiện tượng, trên mọi phương diện, lĩnh vực khác nhau. Ở trong đề tài này, chỉ đề cập đến phát triển trong giáo dục mà cụ thể là phát triển NLTH cho học sinh trong giảng dạy Lịch sử.

NL là sự tổng hợp các yếu tố như kiến thức, kĩ năng, thái độ để giải quyết một tình huống trong thực tế cuộc sống. NLTH là khả năng người học tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, thái độ bằng những biện pháp, hình thức do mình tự khám phá ra. Do đó, phát triển NLTHLS là là trên cơ sở hình thành NLTH cho HS, GV phát triển NLTH cho HS bằng cách thường xuyên tiến hành luyện tập giúp HS nhận thức sâu sắc kiến thức về PP TH, vận dụng thành thục các KN và có sự say mê tích cực trong học tập. Sự tác động sư phạm này sẽ làm NL của HS thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Năng lực tự học của mỗi người được biểu hiện thông qua tính cách và phương pháp học tập của mỗi người. Trong học tập lịch sử, NLTH được biểu hiện đầu tiên ở việc đam mê, thích tìm tòi những kiến thức về lịch sử. Người có NLTH môn lịch sử thường chủ động hoàn thành các kế hoạch của mình theo dự định. Thêm vào đó là có khả năng thu thập tư liệu lịch sử, tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá và vận dụng những bài học đó trong thực tiễn.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/04/2023