Ảnh Hưởng Của Những Thay Đổi Trong Nhu Cầu Về Các Dịch Vụ Giáo Dục

19


phải. Trường đại học thu được càng nhiều tiền một năm từ việc bán các chương

trình, thì họ

càng thu hút được nhiều nguồn lực hơn và sử

dụng để mở

rộng

chương trình. Đường cầu Db1Db1, và đường cung Sb1Sb1, đối với chương trình quản trị kinh doanh về mặt lý thuyết giống như đối với chương trình nông nghiệp. Bây giờ tạm bỏ qua đường Db2 Db2. Giả sử rằng do một sự trùng lắp, thì đường cung và đường cầu ban đầu cho cả hai chương trình có các mức giá giống nhau; đó là Pa1 tương đương với Pb1. Mức độ của chương trình lần lượt là sa1 và sb1.

Bây giờ, để nhu cầu sinh viên trong chương trình quản trị kinh doanh tăng

ngang bằng với chương trình nông nghiệp, đường cầu quản trị kinh doanh di

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.

chuyển tới Db2Db2, và đường cầu nông nghiệp di chuyển tới Da2Da2. Những tác động của việc duy trì giá cân bằng cho hai chương trình là gì? Tại mức giá Pb1, các trường đại học không thể mở rộng chương trình quản trị kinh doanh và không có khả năng chi trả các chi phí để làm như vậy. Việc thiếu cán bộ và cơ sở vật chất để giảng dạy quản trị kinh doanh sẽ xảy ra. Các lớp học sẽ lớn hơn và phòng học

sẽ chật chội hơn. Chất lượng giáo dục sẽ bị giảm. Trong chương trình nông

nghiệp, tại mức giá Pa1 quy mô lớp học sẽ giảm xuống và các cơ sở vật chất sẽ ít bị sử dụng tối đa hơn. Có sự dư thừa về cán bộ và thiết bị giảng dạy. Việc thiếu hoặc thừa những loại hình này là phổ biến trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay. Chúng thể hiện sự thiếu hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ giáo dục do nhà trường không để hệ thống đánh giá phân chia các nguồn lực một cách có hiệu quả.


Hình 1 3 Ảnh hưởng của những thay đổi trong nhu cầu về các dịch vụ giáo 1Hình 1 3 Ảnh hưởng của những thay đổi trong nhu cầu về các dịch vụ giáo 2

Hình 1.3. Ảnh hưởng của những thay đổi trong nhu cầu về các dịch vụ giáo dục

(Da1 Da1 và Sa1 Sa1 là đường cầu và đường cung ban đầu theo năm giáo dục nông nghiệp, ngược lại trong chương trình quản trị kinh doanh chúng là Db1 Db1 và Sb1 Sb1. Bây giờ, giả định rằng nhu cầu cho quản trị kinh doanh tăng từ Db2 Db2 và nhu cầu cho nông nghiệp giảm xuống Da2 Da2. Duy trì các chi phí hữu hình (học phí

20


và lệ

phí) tại điểm Pb1 và Pa1 dẫn tới sự dư thừa của khả

năng giáo dục nông

nghiệp và sự thiếu của khả năng giáo dục quản trị kinh doanh. Nếu để học phí và lệ phí của chương trình quản trị kinh doanh tăng tới pb2 và của nông nghiệp giảm xuống pa2 sẽ làm tăng hiệu quả mà cả hai được sử dụng.) [1, tr.99]

Nếu các trường đại học sử dụng mức giá khác nhau cho các chương trình khác nhau, họ có thể tăng cả hiệu quả và trách nhiệm đối với khách hàng. Hãy để học phí và chi phí trong quản trị kinh doanh tăng lên mức pb2. Phần doanh thu tăng thêm đạt được để mở rộng đến sb2, có tính đến nhu cầu tăng lên. Sự tăng giá cũng giúp giảm áp lực vào cơ sở vật chất bằng cách giảm tỷ lệ nhập học từ sb3 xuống sb2. Bây giờ để học phí và lệ phí của môn nông nghiệp giảm xuống Pa3, các trường đại học được khuyến khích cắt giảm một số chương trình trở về điểm sa2, tại điểm này mới chỉ đủ chi trả các khoản kinh phí. Ngoài ra, việc giảm giá trong nông nghiệp từ Pa1 xuống Pa2 sẽ tăng tỷ lệ nhập học từ sa3 lên sa2. [1, Tr.100]

Để làm cho những phân tích kinh tế trước đây tổng quan hơn, giả định rằng trong trường đại học nhu cầu về một chương trình mới tăng lên, ví dụ nghiên cứu sinh thái học. Chi phí cung cấp số năm của chương trình có thể được xác định và đường cung sau đó có thể gặp đường cầu. Mức giá cân bằng sẽ phản ánh chi phí của chương trình đối với sinh viên. Nó cũng tạo ra khả năng chương trình chính xác mà không xảy ra dư thừa hoặc thiếu hụt. Qua đó cho thấy các loại hình dịch vụ giáo dục tương đối đa dạng và phong phú.

1.1.3 Các nhân tố tác động đến hệ thống trường đại học cao đẳng tư thục

1.1.3.1 Nhân tố về môi trường kinh tế xã hội

Các cơ sở đào tạo dù công hay tư đều phải chịu tác động ở những mức độ khác nhau từ các yếu tố môi trường kinh tế xã hội như trạng thái và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp, nhu cầu và khả năng chi trả của người học, truyền thống hiếu học, và sự hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa. Các cơ sở đào tạo đều cần tới các yếu tố đầu vào cơ bản đó là trường lớp, phòng học, xưởng thực tập, máy móc, thiết bị và tài liệu giáo trình…. Đối với các cơ sở đào tạo công lập, phần lớn các yếu tố này được Nhà nước cung cấp, còn các cơ sở đào tạo tư thường phụ thuộc vào sự tự thân vận động và vào chính những nhà cung cấp các yếu tố này trong nền kinh tế.

Một yếu tố quan trọng từ môi trường kinh tế đó là sự sẵn có, chất lượng và giá cả của lao động. Nếu một nền kinh tế, nguồn lao động chung chưa được đào tạo dồi dào, trong khi đó nguồn lao động được đào tạo lại khan hiếm, điều này sẽ làm tăng nhu cầu đào tạo đối với hệ thống ĐH-CĐ nói chung, trong đó có các trường ĐH-CĐTT.

21


Giá cả lao động cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng về mặt kinh tế đối với cơ sở đào tạo tư thục. Những khoản tiền lương tương đối cao đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý có thể sẽ gây khó khăn cho các cơ sở đào tạo tư thục vì nó đẩy mức học phí lên cao. Trong khi đó nhiều loại cung ứng về GD-ĐT ở khu vực công lập sẽ được thực hiện với mức học phí thấp hơn (vì một phần được nhà nước trợ cấp). Những yếu tố đầu vào đối với một cơ sở đào tạo (như lao động, vật liệu và vốn) chịu ảnh hưởng một cách rõ ràng bởi những thay đổi về mức giá tổng quát trong nền kinh tế. Nếu giá cả tăng mạnh sẽ gây sự hỗn loạn trong môi trường kinh tế ở cả đầu vào và đầu ra. Lạm phát có thể làm sụp đổ các cơ sở đào tạo tư thục vì nó sẽ làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào như chi phí về lao động, vật liệu và các vật dụng khác. Các cơ sở đào tạo tư nhân không thể điều chỉnh kịp mức học phí với đà lạm phát, hơn nữa, thông thường học phí đã được thỏa thuận từ trước giữa cơ sở đào tạo và người học cho nên lúc này học phí sẽ không trang trải được các chi phí về lao động, vật liệu… để duy trì đào tạo.

Phân tích dưới góc độ kinh tế, các trường ĐH-CĐ ít khi hoặc không sử dụng hệ thống giá (học phí, lệ phí) hoặc các lực lượng thị trường trong việc xác định những chương trình mà nhà trường sẽ cung cấp. Các trường thường cố gắng cung cấp những gì mà họ cho rằng xã hội có nhu cầu như kinh doanh, xây dựng, cơ khí, tin học … đồng thời mong muốn của sinh viên và gia đình cũng phải được xem xét, nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhập học của sinh viên. Trong các trường tư thục, những nhà tài trợ chính có ảnh hưởng tới việc lựa chọn chương trình. Tuy nhiên lợi ích của người học được coi là quan trọng nhất [1, tr.101].

Sự hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa là một trong những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành và phát triển giáo dục đại học ở nước ta. Do toàn cầu hóa có năng lực và quy mô chưa từng có, nhà nước và các doanh nghiệp có thể sử dụng những phương thức rộng rãi hơn, nhanh hơn và rẻ hơn trước đây khi tiếp xúc với bên ngoài. Xu thế hội nhập sẽ thúc đẩy nguồn nhân lực, vốn, hàng hóa, khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin chảy vào Việt Nam ngày càng nhanh hơn, điều này dẫn đến môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước càng quyết liệt hơn. Để có được và duy trì một vị trí có ưu thế tương đối trong sự biến đổi không ngừng này, không một nước nào không tích cực tìm kiếm một địa bàn có lợi cho mình, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia. Dưới những ảnh hưởng đan xen cả bên trong và bên ngoài, giáo dục đại học với vai trò gánh vác trách nhiệm khai sáng, truyền bá tri thức và bồi dưỡng, giáo dục nhân tài tự nhiên cũng trở thành một lợi khí lớn trong toàn cầu hóa.

1.1.3.2 Nhân tố về môi trường chính trị, pháp luật và chính sách phát triển giáo dục ĐH-CĐ tư thục

22


Môi trường chính trị và pháp luật bao gồm các luật lệ, các quy tắc và những hoạt động của các cơ quan nhà nước, tất cả chúng có ảnh hưởng tới các cơ sở đào tạo tư thục. Nhận thức, thái độ và hành động của các nhà lãnh đạo chính trị và nhà nước, các nhà lập pháp sẽ thay đổi cùng với sự thăng trầm của những nhu cầu và niềm tin xã hội. Nhiều nhà chính trị ủng hộ việc phát triển khu vực tư thục trong GDĐH-CĐ đã hoàn toàn chuyển hướng khi có nguy cơ các trường tư bị đóng cửa, khi nhân dân kêu ca phàn nàn về học phí cao, về chất lượng GD-ĐT thấp của khu vực tư thục.

Nhà nước có ảnh hưởng thực sự tới mọi khía cạnh của cuộc sống và tới mọi cơ sở đào tạo tư thục. Nhà nước ở đây cùng lúc đóng 2 vai trò chính, một mặt thúc đẩy, mặt khác vừa hạn chế hoạt động của khu vực tư thục. Chẳng hạn Nhà nước

thúc đẩy GD-ĐT tư thục bằng cách khuyến khích việc mở rộng và phát triển

GD-ĐT, bằng việc hỗ trợ, trợ cấp kinh phí cho các cơ sở đào tạo tư thục, bằng cách miễn thuế, bằng cách hỗ trợ giáo viên thuộc biên chế nhà nước, bằng cách hình thành các khoản cho vay với lãi suất ưu đãi. Bằng cách hạn chế việc mở rộng quy mô ở khu vực công lập. Một vai trò khác của nhà nước là hạn chế và điều chỉnh khu vực tư thục trong GD-ĐT. Một cơ sở đào tạo tư thục đều bị bao vây bởi một mạng lưới các điều luật, các quy tắc và các quyết định của tòa án hay các cấp quản lý nhà nước về GD-ĐT nhằm bảo vệ quyền lợi cho người học, cho người lao động và cho toàn xã hội.

Các chính sách hoạch định ra phạm vi thực hiện quyết định và đảm bảo rằng quyết định sẽ phù hợp và đóng góp vào mục tiêu. Các chính sách giúp cho việc giải quyết sớm các vấn đề không cần phải phân tích khi chúng xuất hiện trong các tình huống tương tự và giúp cho việc thống nhất các kế hoạch khác nhau. Ví dụ cho các chính sách giáo viên ở các trường công lập được hợp đồng giảng dạy ở các trường tư thục. Chính sách này cho phép hiệu trưởng ở các trường đại học, cao đẳng tư thục đưa ra các kế hoạch mời giáo viên trường công tham gia giảng dạy mà không phải xin ý kiến của cấp cao nhất, tuy nhiên vẫn cần các tiêu chuẩn để kiểm tra (Chẳng hạn tỷ lệ mời giảng viên thỉnh giảng so với tổng số giáo viên cả cơ hữu và mời giảng, tiêu chuẩn bằng cấp...).

Do các chính sách là những tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết định cho nên chúng phải có một phạm vi co giãn nào đó, ngược lại chúng có thể sẽ trở thành những nguyên tắc. Trong một số trường hợp phạm vi chính sách có thể co giãn khá rộng rãi, nhưng nó có thể lại rất chật hẹp. Chính sách là một biện pháp khuyến khích tự do và sáng tạo, nhưng trong giới hạn, tất nhiên khả năng tự do có thể sẽ phụ thuộc vào chính sách và khả năng này lại phản ánh chức vụ của người quản lý.

23


Lý luận và thực tiễn cho thấy chính sách đối với khu vực tư GDĐH-CĐ có thể được hình thành từ bốn nguồn:

nhân trong

- Khi tho: Nguồn chính sách logic nhất chính là cấp quản lý cao nhất

của hệ thống giáo dục, khởi thảo ra chính sách với mục đích cấp bách là để

hướng dẫn các cá nhân, các tổ chức xã hội và kinh tế, các trường tư thục trong hành động của họ. Về cơ bản chính sách loại này bắt nguồn từ mục tiêu của hệ thống giáo dục và do cấp cao trong quản lý xác định.

- Gi m: Trong thực tế, có lẽ hầu hết các chính sách lại bắt nguồn từ các tình huống trong đó cán bộ cấp thấp đã vạch ra những trường hợp ngoại lệ cho cấp quản lý phía trên. Khi những gợi ý đã được đưa lên trên và đã có các quyết định về chúng, sẽ hình thành một loạt luật lệ chung. Những tiền lệ được hình thành và trở thành những hướng dẫn cho các hành động quản lý sau này. Có thể minh họa chính sách bắt nguồn từ gợi mở phát triển đại học dân lập ở nước ta qua trường hợp Đại học Dân lập Thăng Long (nay là trường tư thục). Chính sách được xây dựng từ những gợi ý đôi khi không hoàn hảo và mang tính cục bộ. Nếu người quản lý đưa ra các quyết định dựa vào một tập hợp các sự kiện đã biết mà không xét đến những ảnh hưởng có thể có của chúng tới những khía cạnh khác của hoạt động, hoặc nếu những điều lệ không định trước lại hình thành từ những quyết định này thì những chính sách tạo ra sẽ không dẫn dắt được suy nghĩ và hành động của cấp cơ sở như những người quản lý cấp cao hằng mong muốn.

- Ngm đnh: Các hoàn cảnh khác nhau lý giải việc hình thành chính sách ngầm định. Có thể có trường hợp các chính sách được công bố chẳng qua là để cho có chứ không (hay chưa) được đưa vào thực hiện. Có thể có một quốc gia công bố một chính sách nào đó chỉ là để tạo ra một ấn tượng mong muốn chứ không có khả năng hoặc không sẵn sàng thi hành chúng. Trong hầu hết mọi trường hợp, chính sách ngầm định được đưa ra khi chưa có đường lối và chiến lược rõ ràng. Những người ra quyết định ở cấp thấp chọn những cách chỉ đạo riêng cho mình theo cách mà họ hiểu được qua hành động của cấp trên họ.

- Sc ép tác đng tbên ngoài: Các chính sách sinh ra do sức ép từ phía ngoài hệ thống con (hay ngoài cơ sở đào tạo) tác động vào hệ thống con (hay ngoài

cơ sở đào tạo) ngày càng tăng. Sự điều chỉnh trực tiếp, sự cạnh tranh của các

trường công, trường tư và những điều kiện đòi hỏi phải có sự trợ giúp của Nhà nước chính là một số hình thức gây sức ép từ bên ngoài. Những tổ chức xã hội khác chẳng hạn như nhà thờ, đoàn thể và nhân đạo cũng có thể tạo ra hay ép buộc đối với chính sách của bản thân một trường tư nào đó.

Việc định ra các chính sách phù hợp và đầy đủ đối với khu vực GDĐH-CĐTT nhằm thực hiện mục tiêu của cả hệ thống GD-ĐT là một việc khó khăn bởi nhiều lý

24


do:

- Thứ nhất, các chính sách rất ít khi được xác định rõ ràng bằng văn bản và

ít khi được giải thích chính xác. Chẳng hạn: “Vốn của đại học tư thục gồm có vốn ban đầu và vốn có được trong quá trình hoạt động”. Ở đây có thể đặt ra một loạt câu hỏi: Vốn ban đầu là gì? Vốn này là bao nhiêu? Nó được hình thành như thế nào? Theo quy định hiện nay vốn ban đầu để được phép thành lập trường đại học cao đẳng là 50 tỷ đồng đã phù hợp chưa?

- Thứ hai, chính sự phân chia quyền hạn mà các chính sách dự định thực hiện thông qua việc phi tập trung hóa ảnh hưởng của nó, sẽ dẫn tới sự tham gia rộng rãi vào sự hoạch định và sự giải thích chính sách với sự khác biệt nhất định nào đó giữa các cơ sở và giữa các cá nhân.

- Thứ ba, ở bất cứ một cấp nào định ra chính sách, đôi khi họ chưa đủ kiến thức và thông tin hay chưa tính hết tác động của việc ban hành và thực thi chính sách đối với mọi khía cạnh của đời sống xã hội.

- Thứ tư, không phải lúc nào cũng dễ dàng kiểm tra một chính sách, bởi vì việc xác định một chính sách thực tế (định lượng việc thực thi chính sách) có thể khó khăn và chính sách dự định thì không phải luôn luôn rõ ràng.

1.1.3.3 Nhân tố về môi trường khoa học kỹ thuật công nghệ

Sự ảnh hưởng của khoa học được thấy ở những kiến thức mới, của kỹ

thuật công nghệ được thấy trong các sản phẩm mới, các máy móc mới, các công cụ mới, các vật liệu mới và các dịch vụ mới. một phần lợi ích thu được từ khoa học, kỹ thuật, công nghệ là nó đem lại hiểu biết mới hơn, năng suất lớn hơn, thời gian nhàn rỗi nhiều hơn và sự đa dạng hơn của sản phẩm.

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ làm tăng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại, tức là tăng “khách hàng” đối với các trường (công và tư), nhưng đồng thời buộc các cơ sở đào tạo phải đổi mới nội dung chương trình đào tạo, đổi mới máy móc, thiết bị của việc đào tạo thuộc lĩnh vực kỹ thuật công

nghệ đang thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển vượt bậc của KHCN trong giai

đoạn hiện nay ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình hình thành các cơ sở đào tạo tư thục. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng chương trình, ngành nghề đào tạo để có thể tiếp cận được với khoa học công nghệ hiện đại.

1.2 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC

1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hệ thống trường đại học cao đẳng

1.2.1.1 Khái niệm về quản lý nhà nước

25


Trong hệ thống các chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước là chủ thể duy nhất

quản lý xã hội toàn dân, toàn diện bằng pháp luật. Quản lý xã hội là thực hiện

các chức năng tổ chức nhằm tạo những điều kiện cần thiết để đạt những mục

đích đề ra trong quá trình hoạt động chung của con người trong xã hội. Vì vậy, từ khi xuất hiện nhà nước, quản lý xã hội được nhà nước đảm nhận. Nhưng, quản lý xã hội không chỉ do nhà nước với tư cách là một tổ chức chính trị đặc biệt thực hiện, mà còn do tất cả các bộ phận khác cấu thành hệ thống chính trị thực hiện như: các chính đảng, tổ chức xã hội... Như vậy, quản lý nhà nước là dạng quản lý

xã hội mang tính quyền lực nhà nước,

sử dụng quyền

lực

nhà nước

để điều

chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát

triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.[16, tr.6]

Quản lý nhà nước là các công việc được thực hiện bởi tất cả các cơ quan

nhà nước, cũng có khi do nhân dân trực tiếp

thực hiện

bằng

hình thức bỏ

phiếu hoặc do các tổ chức xã hội, các cơ quan thực hiện nếu được Nhà nước giao quyền thực hiện chức năng nhà nước. Quản lý nhà nước thực chất là sự quản lý có tính chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông qua bộ máy nhà nước trên cơ sở quyền lực nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ.

1.2.1.2 Quản lý nhà nước về giáo dục đại học, cao đẳng

Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là việc

nhà nước

thực

hiện

quyền

lực

công để điều

hành, điều

chỉnh toàn bộ tác hoạt động GD-ĐT trong

phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà nước. Quản

lý nhà nước về GD-ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lý có trách nhiệm về giáo dục của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT, duy trì kỷ cương, thỏa mãn nhu cầu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD- ĐT của nhà nước.

Trong khái niệm quản lý nhà nước về GD-ĐT nổi lên 3 bộ phận chính, đó là chủ thể, khách thể và mục tiêu của giáo dục và đào tạo:

- Chủ thể quản lý nhà nước về GD-ĐT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập pháp, hành pháp) được quy định ở điều 87 của Luật Giáo dục.

- Khách thể của quản lý nhà nước về GD-ĐT là hệ thống giáo dục quốc dân và mọi hoạt động GD-ĐT trong phạm vi toàn xã bội.

- Mục tiêu GD-ĐT về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ cương trong các hoạt động GD-ĐT, để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công

26


dân; Tuy nhiên ở mỗi cấp học, bậc học đã được cụ thể hóa mục tiêu trong Luật giáo dục và điều lệ các nhà trường

Như vậy, có thể nói: Quản lý nhà nước về GD-ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của Bộ giáo dục từ trung ương đến cơ sở lên hệ thống GĐQD và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí - đào

tạo - bồi dưỡng

[13, tr.5]

nhân tài cho đất nước

và hoàn thiện nhân cách cho công dân.

Cần lưu ý rằng, quản lý nhà nước là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân.

Còn quản lý nhà nước về GD-ĐT thực chất

là thực thi quyền

hành pháp để tổ

chức, điều

hành và điều chỉnh mọi hoạt

động giáo dục đào tạo trong phạm vi

toàn xã hội. Tuy nhiên, để quản lý có hiệu lực và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống.

Từ những cơ sở lý luận trên có thể hiểu: Quản lý nhà nước đối với hệ thống các trường đại học cao đẳng là nhà nước thực thi quyền hành pháp để điểu chỉnh các hoạt động trong HTGDĐH-CĐ đồng thời thể hiện sự cam kết của nhà nước đối với sự phát triển của giáo dục đào tạo. Chính phủ, Bộ Giáo dục và đào tạo, các bộ ngành và ủy ban nhân dân các địa phương được phân cấp chia sẻ thực hiện cam kết đó, cần phân định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm trong việc quản lý các trường để tạo sự đồng thuận cao.

1.2.2 Đặc điểm quản lý nhà nước đối với hệ thống trường đại học cao đẳng tư thục

Một trong các mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý nhà nước về GD-ĐT là nhằm bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước quy định. Từ các nhận thức trên, chúng ta thấy quản lý nhà nước về GD-CĐ có đặc điểm:

Thứ nhất:

Vừa theo nguyên tắc

quản

lý hành chính nhà nước đối với

hoạt

động của quản lý giáo dục đào tạo,

vừa theo nguyên tắc

hành chính giáo

dục đối với một cơ sở giáo dục trong đó có cơ sở giáo dục đại học tư thục. Hành

chính-giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà

nước quy định (phân cấp, phân công hoặc uỷ quyền). Các cơ quan, tổ chức thay

mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp GD-ĐT và điều

hành, điều

chỉnh các hoạt

động GD-ĐT. Quản lý hành chính thực chất

là việc

xây dựng các văn bản pháp

quy và chấp hành các văn bản, kết hợp với quản lý giáo dục là đưa việc xây dựng các văn bản vào các hoạt động chuyên môn của giáo dục làm cho mọi người hiểu được các quy định của văn bản để thực hiện cho đúng.

Xem tất cả 238 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí