Đánh Giá Chung Về Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Của Nhà Nước Đối Với Giáo Dục Đại Học Công Lập Của Việt Nam Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển .


trường được quyết định các mức thu, khoản thu cụ thể theo nguyên tắc đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.

+ Về sử dụng nguồn tài chính

Nguồn tài chính của các cơ sở đào tạo bao gồm:

Nguồn thu từ NSNN: (i) Kinh phí chi cho các hoạt động thường xuyên, (ii) Kinh phí thực hiện các hoạt động khoa học công nghệ, chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ khác được cấp có thẩm quyền giao, (iii) vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ theo dự án và kế hoạch hàng năm, (iv) Vốn đối ứng các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, (v) Viện trợ ODA.

Nguồn thu hợp pháp khác: (1) Thu học phí, lệ phí từ người học, (2) Thu từ các hoạt động hợp tác đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ, (3) Thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, (4) Đầu tư của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài để phát triển giáo dục theo quy định của pháp luật, (5) Tài trợ, viện trợ, ủng hộ, quà biếu, tặng cho của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước, (6) Các nguồn thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Trường được tự chủ trong việc lập kế hoạch: và sử dụng kính phí NSNN cấp thường xuyên và các nguồn thu hợp pháp khác để chi cho các hoạt động thường xuyên, tăng cường năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý nhà trường trên cơ sở chấp hành Qui chế chi tiêu nội bộ của trường và các quy định của nhà nước về quản lý tài chính.

Được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản kinh phí thuộc NSNN; mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại để phản ánh các khoản kinh phí thuộc nguồn thu hợp pháp của trường (được sử dụng lãi tiền gửi ngân hàng như là một nguồn thu hợp pháp).

+ Về quản lý và sử dụng tài sản:

Các cơ sở đào tạo công lập được phép quản lý và sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo chức năng, nhiệm vụ được giao theo Luật Quản lý sử dụng tài sản nhà nước số 09/2008/QH12 ngày 03/6/2008; Luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.


Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017 để thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008; Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 06/6/2009 của Chính phủ và Nghị định số 04/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển - 16

Đối với tài sản tự có, các trường quản lý và sử dụng theo quy định của quy chế chi tiêu nội bộ của trường, trong đó: Được quyết định mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, vốn huy động theo quy hoạch phát triển trường được cấp có thẩm quyền phê duyệt; tham gia đấu thầu các hoạt động dịch vụ, phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của trường; được sử dụng thương hiệu, uy tín, chất lượng, tài sản đầu tư từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, vốn vay, vốn huy động của cán bộ giảng viên, viên chức trong trường để quyết định liên doanh, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của trường và quy định của pháp luật.

Các hoạt động liên doanh, liên kết đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư phát triển và thực hiện các hoạt động dịch vụ của trường được hưởng ưu đãi theo quy định của Chính phủ quy định, tại Nghị định số 69/2008/HĐ- CP ngày 30/8/2008 và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường

3.4. Đánh giá chung về cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với giáo dục đại học công lập của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển .

3.4.1. Những kết quả đạt được

Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, GDĐH đã đạt được nhiều thành công, trong đó có việc đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động của các trường ĐHCL. Các kết quả đó thể hiện như sau:


Thứ nhất: Thực hiện Luật NSNN năm 2002 và Nghị định 10/2002/NĐ-CP và Nghị định số 43/NĐ-CP của Chính phủ, phương thức lập và phân bổ dự toán được điều chỉnh thay vì cấp ngân sách theo hạn mức hàng tháng đến từng khoản mục chi của mục lục NSNN do BTC quy định, các trường ĐH được cấp và giao dự toán chi ngân sách ngay từ đầu năm theo một mục chi (chi khác). Các trường ĐH sẽ căn cứ vào khối lượng và kết quả công việc để rút dự toán và chi tiêu kinh phí. Những điều chỉnh này đã tăng hơn quyền chủ động cho các trường ĐH trong việc sử dụng kinh phí. Đặc biệt đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao, với yêu cầu tiếp cận các tiêu chuẩn, kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động đào tạo, quản lý thì việc tăng quyền tự chủ quyết định sử dụng kinh phí có ảnh hưởng tích cực tới kết quả hoạt động.

Đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động sẽ không còn bị khống chế mức trần tiền lương như Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ trước đây, sau khi hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước và trích lập các quỹ theo quy định, đây là điểm mới sửa đổi để khắc phục những quy định đang bó buộc các đơn vị sự nghiệp trong những năm qua. Mức tăng thu nhập người lao động còn tuỳ thuộc nguồn thu của từng đơn vị.

Thứ hai: Đã có những đổi mới trong việc quản lý và điều hành ngân sách, trong việc phân loại các CSĐT - GDĐHCL có thu dựa trên khả năng đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên để từ đó có cơ sở cấp ngân sách. Đây là một biện pháp nhằm giảm bớt gánh nặng NSNN đồng thời tăng cường tính chủ động cho các trường ĐHCL.

Thứ ba: Các trường ĐHCL được quyền tự chủ huy động nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp nhờ việc đa dạng hoá các hình thức đào tạo như đào tạo tập trung, đào tạo từ xa, đào tạo liên kết với nước ngoài, có thể vay các tổ chức tín dụng, huy động của các cán bộ, viên chức trong đơn vị, từ các nhà đầu tư thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết, khai thác các nguồn tài chính trong dân cư, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tổ chức quốc tế để tăng nguồn lực tài chính đầu tư cho các trường ĐH.

Thứ tư, Nguồn tài chính có vai trò quan trọng, tác động đến chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường ĐH. Trong điều kiện các khoản kinh phí


được cấp từ NSNN còn hạn hẹp, nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách cho phép các trường ĐHCL tăng cường các khoản thu ngoài NSNN. Đặc biệt các cơ chế, chính sách về huy động và sử dụng các nguồn tài chính của các trường ĐHCL đã tiếp cận theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Thông qua nguồn thu từ học phí của người học và việc huy động thêm các nguồn vốn ngoài nước (đặc biệt là vốn ODA) từ các dự án hỗ trợ đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm thực hành, đổi mới trang thiết bị tại các trường ĐHCL đã góp phần tạo được nguồn tài chính cũng như việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở này. Áp dụng chế độ "chia sẻ chi phí đào tạo" là chủ trương đúng đắn trong bối cảnh cạnh tranh mang tính toàn cầu, nhu cầu theo học ĐH của người dân rất lớn và có xu hướng ngày càng tăng trong khi khả năng hỗ trợ của NSNN còn hạn chế. Chính sách học phí đã được xã hội chấp nhận.

Quy định mức, khung học phí có tính đến đặc điểm của ngành học, khả năng chi trả của tầng lớp dân cư, khu vực, có quy định miễn giảm học phí cho các đối tượng, phù hợp mức sống và thu nhập nhân dân địa phương nhất là con em nông dân, vùng sâu, vùng xa. Đối tượng miễn giảm học phí tuy còn ít nhưng đã góp phần phát triển giáo dục, từng bước thực hiện công bằng xã hội trong GDĐH, động viên khuyến khích các đối tượng chính sách và người nghèo học tập bậc cao hơn, nhất là gia đình có thu nhập thấp, con em nông dân.

Thứ năm: Đồng thời với việc khai thác nguồn thu, các trường ĐHCL được tự chủ xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thông qua quy chế chi tiêu nội bộ tạo cơ sở tăng thu, tiết kiệm chi, tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát thu, chi của cơ quan chủ quản và cơ quan Tài chính, Kiểm toán và Kho bạc. Thu nhập bình quân của cán bộ, giáo viên từng bước được cải thiện, việc chi trả thu nhập cho từng người lao động trong đơn vị do Hiệu trưởng các trường ĐH quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ gắn với hiệu suất công tác, không trả bình quân góp phần thu hút được lao động có trình độ vào làm việc tại các trường; hạn chế nạn chảy chất xám của các trường ĐHCL.


Thứ sáu: Nhận thức của các trường ĐHCL về tác động của các nguồn lực tài chính đến chất lượng hoạt động của trường ĐH ngày càng tăng. Các trường ĐHCL đều cố gắng huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hoạt động dịch vụ. Vì vậy nguồn lực tài chính của các trường ĐHCL cũng đã tăng lên trong những năm qua.

3.4.2. Những hạn chế - Nguyên nhân

Cho đến hết năm học 2019-2020, số lượng CSGDĐHCL thực hiện tự chủ toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư còn khá khiêm tốn, mới chỉ có 21/170 CSGDĐHCL thực hiện tự chủ tài chính toàn bộ, trong khi đó, có tới 149/170 trường mới tự chủ được một phần chi thường xuyên. Những kết quả này thể hiện mức độ tự chủ tài chính của phần lớn các CSGDĐHCL còn rất nhỏ bé và đồng nghĩa với việc khả năng khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính ngoài NSNN của phần lớn các CSGDĐHCL còn rất hạn chế [81].

Thứ nhất: Thực tế phân bổ NSNN cho GDĐHCL nổi lên một số vấn đề sau đây:

- Phương thức phân bổ trong chi thường xuyên tạo sự thuận tiện trong tính toán phân bổ nhưng khó thúc đẩy việc cải thiện chất lượng do phân bổ trong chi thường xuyên được thực hiện trực tiếp, theo công thức định sẵn và dựa trên yếu tố đầu vào.

- Sự không "cân sức" trong tự chủ tài chính, nhất là đối với các trường có chi phí đào tạo đơn vị cao, và cũng dễ dẫn đến sự tập trung quá mức vào ngành đào tạo chi phí đơn vị thấp do định mức phân bổ còn mang tính cào bằng do chi phí đào tạo đơn vị từng ngành chưa được tính toán đủ.

- Bộ GD&ĐT không thể kiểm tra, giám sát và tổng hợp ngân sách trong khi các trường thì hầu như bị động hoàn toàn, chưa có tiếng nói trong quá trình phân bổ hay thảo luận ngân sách do quy trình phân bổ chưa có sự tham gia đúng mức của Bộ GD&ĐT.

Thứ hai: Việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách đầu tư cho GDĐH còn gặp nhiều khó khăn do các quy định về việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở GDĐHCL hiện nay còn nhiều bất cập.

- Tình trạng thiếu nhất quán, đồng bộ trong các quy định về tự chủ khi mà ngoài các quy định của Luật Giáo dục đại học, các trường đại học công lập phải


tuân thủ các quy định của luật chuyên ngành như: Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý sử dụng tài sản công... Nhưng trên thực tế các luật chuyên ngành này chưa có quy định đặc thù cho giáo dục đại học nên một số nội dung còn mâu thuẫn. Ví dụ như tại Điều 66 Luật Giáo dục đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập tự đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên thì Hội đồng trường, Hội đồng đại học được quyết định sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách nhà nước cấp để đầu tư các dự án… Tuy nhiên, theo Điều 17 và Điều 39 của Luật Đầu tư công, Điều 8 và Điều 9 Nghị định số 136/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 không có quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư của cơ sở giáo dục đại học công lập [82].

- Theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, tiếp đến Nghị định số 60/2021/NĐ-CP thì các đơn vị sự nghiệp được liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân để cung cấp các dịch vụ đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội theo quy định của pháp luật, tuy nhiên, hiện chưa có một quy định nào hướng dẫn cụ thể hơn nên các đơn vị sự nghiệp GDĐHCL còn lúng túng, chưa thống nhất. Việc quy định chi và kiểm soát việc thu chi nhằm đảm bảo chất lượng chưa cụ thể dẫn đến một số trường ĐHCL khi mở rộng hoạt động dịch vụ (liên doanh, liên kết trong hoạt động) còn chạy theo số lượng dịch vụ mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng kỹ thuật để tăng thu.

- Việc quy định khống chế thu nhập tăng thêm đối với các cơ sở GDĐHCL tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên và đơn vị do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên sau khi trang trải các chi phí hoạt động và thực hiện nghĩa vụ với NSNN theo quy định không khuyến khích các đơn vị tăng thu, tiết kiệm chi và giảm động lực của các trường trong việc huy động các nguồn thu sự nghiệp, các nguồn thu ngoài NSNN khác để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.

- Việc phân loại đơn vị sự nghiệp công lập chưa rõ ràng theo mức độ tự chủ, các trường ĐHCL vẫn chưa chủ động trong việc khai thác nguồn thu sự nghiệp, chưa có sự tách biệt giữa các nguồn thu sự nghiệp ổn định và nguồn thu không ổn định và vẫn muốn tăng kinh phí hỗ trợ từ NSNN. Mặc dù đã có 1 bước tiến dài từ Nghị định số 16/2015/NĐ-CP tổng hợp chung tất cả các nguồn lực tài chính, chưa


quy định rõ nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công và các hoạt động kinh doanh dịch vụ (khoản 1 Điều 12) sang Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, tách rõ nguồn thu hoạt động sự nghiệp công gồm: Thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công; thu từ cho thuê tài sản công (khoản 2 Điều 11).

Một số chính sách của Nhà nước là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các trường ĐH còn lúng túng, khi thực hiện các định mức, tiêu chuẩn ngành, do một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật lạc hậu, chậm sửa đổi như: định mức giờ giảng, định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành, nghề ... nên hạn chế tính tự chủ tài chính đối với các trường ĐH. Đến khi Nghị định số 60/2021/ NĐ-CP ra đời thì bước đầu trao nhiều quyền tự chủ nói chung và tự chủ tài chính nói riêng cho các trường đại học, nhưng vẫn chưa đủ mạnh và linh động để giúp các trường có khả năng chủ động tự điều chỉnh chính sách của mình nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển và sự biến động nhanh chóng của thực tiễn quản lý.

- Cơ chế thu, sử dụng học phí chưa bao quát toàn diện về đối tượng thu học phí. Một số trường ĐH do nguồn thu học phí hạn chế, không có nguồn thu để thực hiện tỷ lệ theo quy định, có nơi tỷ lệ dành cho cơ sở vật chất, điều tiết chung cao hơn, thấp hơn so với quy định. Việc quy định mức học phí theo khung, chậm sửa đổi, còn mang nặng tính bình quân và chưa nghiên cứu đầy đủ thu nhập người dân, phù hợp từng loại trường, từng ngành nghề đào tạo và quan tâm chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với sinh viên thuộc diện chính sách xã hội. Do vậy, vừa là gánh nặng cho đối tượng nghèo và có thể bao cấp cho đối tượng có thu nhập cao, tạo mất công bằng xã hội trong giáo dục. Quy định mức học phí phải đóng của Nhà nước, chưa tính yếu tố khác như: khả năng chi trả của sinh viên, phương thức tính toán thích hợp. Việc miễn (giảm) học phí chú trọng mục tiêu và nhóm sinh viên đặc trưng, song thu nhập gia đình không coi là yếu tố xem xét tới, mức học phí xác định


theo ngành đào tạo, theo quy định của trường hơn việc xem xét tới thu nhập gia đình. Chính sách hiện hành của Nhà nước về học phí cho phép trường ĐH tăng thêm nguồn thu, song chưa thực sự đúng nghĩa trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, đó là chưa tự chủ về mức thu. Đây là nguồn thu chiếm tỷ trọng đáng kể đối với các trường ĐHCL. Ngoài ra, việc các trường ĐHCL vẫn bị khống chế bởi số lượng tuyển sinh hàng năm, việc tăng nguồn thu từ học phí vẫn còn rất hạn chế.

+ Chính sách học phí và miễn giảm

Học phí thu được phải dành một phần tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ quy định cho việc cải cách tiền lương theo Thông tư số 02/2005/TT-BTC ngày 06 tháng 01 năm 2005 của BTC. Đồng thời dành cho việc chi trả thu nhập tăng thêm theo quy chế chi tiêu nội bộ của các trường ĐHCL làm ảnh hưởng không nhỏ đến cơ cấu, tỷ lệ cho các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường, đặc biệt là tỷ lệ dành cho việc đầu tư, nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở vật chất, giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Việc tự chủ khai thác nguồn thu từ hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ, nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng rất hạn chế. Tuy nhiên, các trường chỉ mới chú trọng đến việc thu học phí, việc tổ chức thực hiện khai thác và huy động nguồn thu ngoài NSNN chưa được thực hiện đồng bộ. Chưa có các giải pháp phù hợp để huy động các nguồn lực tài chính khi thực hiện các dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.

Chi phí đào tạo hiện hành cho 1 sinh viên (NSNN, học phí, khoản thu khác) còn thấp, chưa đảm bảo chi phí đào tạo của các trường ĐH. Chính sách học phí chưa tính tới công bằng trong GDĐH, cụ thể mức học phí chưa tính tới nguồn thu nhập của gia đình, học phí là vật cản quan trọng đối với sinh viên thuộc gia đình có thu nhập thấp. Việc giảm học phí đối với sinh viên thuộc diện nghèo ở nước ta hiện nay gặp khó khăn vì không đủ thông tin chính xác và đầy đủ về thu nhập của từng hộ gia đình. Tỷ lệ sinh viên phải đóng học phí trong tổng số sinh viên là khác nhau đáng kể giữa các trường ĐHCL.

Theo phản ánh của một số trường ĐH đã thực hiện tự đảm bảo 100% kinh phí hoạt động thường xuyên (Trường ĐH Ngoại thương, ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí