11
Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi mục tiêu của đầu tư giáo dục không hẳn là sinh lợi. Nhiều cá nhân, đặc biệt là các hiệp hội, thành lập trường tư không nhằm mục đích “kiếm lời” mà nhằm mục đích nhân đạo, với mong muốn đơn thuần là truyền thụ sự giáo dục cho mọi người. Đối với các loại hình trường tư không kinh
doanh này, thông thường người ta thêm thuật ngữ “phi lợi nhuận” (non-profit)
hoặc “không vụ lợi” (not-for-profit). Đương nhiên không vụ lợi không có nghĩa là không có lợi nhuận. Loại hình trường tư này hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận làm trọng và số chênh lệch giữa toàn bộ nguồn thu trừ đi chi phí cần thiết của giáo dục đào tạo, được nhập vào “quỹ hội” (quỹ chung của trường). Toàn bộ quỹ này chỉ dùng để phát triển giáo dục đào tạo của trường mà thôi [37].
Một cách tiếp cận khác để phân biệt trường công và trường tư là dựa vào cách tính thuế thu nhập. Nếu một trường do một người hoặc một gia đình thành lập và thu lợi, thì nó giống như một doanh nghiệp tư nhân, nếu một trường do một nhóm người thành lập và thu lợi thì đây chính là một công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo chính sách Nhà nước thì loại trường theo đuổi mục tiêu lợi nhuận phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho nhà đầu tư. Loại thứ hai là loại trường phi lợi nhuận, loại trường này "lợi nhuận" nếu có không phân phối cho người góp vốn, mà được dùng để tái đầu tư mở rộng giáo dục đào tạo. Và theo chính sách Nhà nước thì loại trường này không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
(4) Địa vị pháp lý của trường tư thục
ĐH-CĐTT ở bất cứ một quốc gia nào cũng là một chủ thể pháp luật độc lập. Muốn tham gia vào các quan hệ xã hội, trường phải có một địa vị pháp lý nhất định để xác định ranh giới của nó trong mối quan hệ với các chủ thể pháp luật khác. “Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong hoạt động của mình”.
Như vậy, địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật chính là “áo khoác pháp lý” cho nó, giúp khách hàng, đối tác của chủ thể đó nhận dạng được mình sẽ, đang quan hệ với loại chủ thể nào, quyền, nghĩa vụ của chủ thể đó ra sao để rồi họ quyết định có tiếp tục có quan hệ với chủ thể đó hay không. Việc thiết kế một “áo khoác pháp lý” cho tất cả các chủ thể pháp luật trong đó có ĐH-CĐTT khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật là hết sức cần thiết.
“Áo khoác pháp lý” của trường đại học cho phép sinh viên, đối tượng quan trọng nhất của bất cứ một trường đại học nào biết được nơi mà họ sắp ghi danh có quy chế pháp lý thế như nào, đây là cơ sở đào tạo vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận; quyền lợi của họ được bảo vệ ra sao; để từ đó họ có thể lựa chọn cơ sở
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam - 1
- Quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam - 2
- Ảnh Hưởng Của Những Thay Đổi Trong Nhu Cầu Về Các Dịch Vụ Giáo Dục
- Nội Dung Cơ Bản Quản Lý Nhà Nước Đối Với Khu Vực Giáo Dục Đại Học Cao Đẳng Tư Thục
- Các Mô Hình Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Đại Học Cao Đẳng
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
12
đào tạo thích hợp. Tương tự như vậy, đối với bản thân những người chủ sở hữu của ĐH-CĐTT, họ cũng cần biết nếu theo mô hình lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì trường đại học của họ có những lợi thế hoặc bất lợi gì. Đối với các cơ quan quản lý hay đối tác của trường tư thục, việc biết đại học này khoác “áo khoác pháp lý” nào cũng rất cần thiết. Nếu là mô hình phi lợi nhuận thì chính sách thuế của Nhà nước sẽ khác với mô hình lợi nhuận ở chỗ nào? Nếu là mô hình lợi nhuận thì cơ chế kiểm soát tài chính, cơ chế kiểm toán có khác gì không so với mô hình phi lợi nhuận? Cơ chế vay vốn của các ngân hàng có khác hay không đối với hai mô hình này…
Địa vị pháp lý của các trường ĐH-CĐTT bao gồm tất cả những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của trường. Đây là vấn đề rộng được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy địa vị pháp lý của trường ĐH-CĐTT thể hiện ở hai mặt cơ bản sau:
- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như trường đại học công lập. Trong hệ thống giáo dục của một quốc gia ĐH-CĐTT là một thành viên có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại các ngân hàng, kho bạc nhà nước. Trường có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền lợi như các trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều này khẳng đinh trường ĐH-CĐTT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như các trường đại học công lập. Những quy định đó thể hiện chính sách công bằng, bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước khuyến khích và bảo hộ những quyền và lợi ích hợp pháp của các trường tư thục, đề cao tính tự chủ nhưng phải tuân thủ pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho trường ĐH-CĐTT phát triển, phát huy vai trò trong sự nghiệp xã hội hóa.
- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý của một công ty cổ phần. Trường
ĐHTT do các cá nhân, tổ chức thành lập, đầu tư xây dựng cơ cở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước; hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện góp vốn, tự chủ về tài chính, tự cân đối thu chi, thực hiện các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, thống kê, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Từ đó cho thấy trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như là một doanh nghiệp, có hình thức tổ chức và hoạt động giống công ty cổ phần.
Vấn đề đặt ra ở đây là nếu xác định là một doanh nghiệp thì mục đích là
kinh doanh sinh lợi, theo Khoản 1, Điều 4 Luật doanh nghiệp: Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ
trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi. Trong điều kiện kinh tế
thị
trường và chủ
trương xã hội hóa giáo dục chúng ta cần chấp nhận việc cho phép trường ĐH- CĐTT hoạt động theo mục đích sinh lợi. Khi các tư nhân bỏ tiền vào đầu tư
13
trong lĩnh vực giáo dục, thì họ phải thu được hưởng lợi từ đầu tư đó. Vấn đề là Nhà nước sẽ quản lý chặt chẽ về nội dung, chất lượng, chương trình đào tạo, những trường ĐH-CĐTT không đáp ứng được yêu cầu chất lượng và giá cả cạnh tranh (học phí) thì sẽ bị xã hội đào thải theo quy luật thị trường.
1.1.1.2 Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển học cao đẳng tư thục
khu vực giáo dục đại
Có thể nói sự hình thành và phát triển của khu vực GDĐHCĐTT tại Việt Nam cũng như hầu thế các quốc gia khác trên thế giới là một thực tế tất yếu nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, giảm bớt gánh nặng về ngân sách nhà nước cho GDĐT để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đối với nguồn nhân lực và thỏa mãn nhu cầu được đào tạo của người học để tìm kiếm việc làm trên thị trường lao động.
Với số lượng sinh viên đại học và cao đẳng là rất lớn, hầu như không có quốc gia nào trên thế giới đủ ngân sách để bao cấp hoàn toàn cho giáo dục và đào tạo, nên việc huy động các nguồn kinh phí ngoài nhà nước cho GDĐH-CĐ trở thành chủ trương phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới, và công cuộc tư nhân hóa GDĐH-CĐ đã phản ánh xu hướng đó.
Thực tế chỉ rõ rằng các cơ sở đào tạo tư nhân có năng lực tiềm tàng to lớn để góp phần hiện thực hóa các mục tiêu nhiệm vụ của nhà nước giao cho họ. Các cơ sở tư thục có thể tăng nguồn lực cho giáo dục bằng cách huy động các đóng góp tư nhân (kể cả người học) bổ sung thêm cho nguồn tài chính do nhà nước cung cấp. Các cơ sở này có thể tăng cường tính đa dạng cho cả hệ thống và vì vậy tăng khả năng lựa chọn và đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra, khu vực GDĐHCĐTT còn có khả năng thích ứng tương đối nhanh với những thay đổi và do đó tăng cường tính đáp ứng của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu của ngân hàng thế giới cũng chỉ ra rằng các HTĐH-CĐ tư là nguồn bổ sung quan trọng cho HTĐH- CĐ công, có thể đáp ứng những nhu cầu của sinh viên và người thuê nhân công một cách có hiệu quả và mềm dẻo.
Như vậy cả HTĐH-CĐ ngoài công lập và công lập đều cung cấp học vấn đại học, nghề nghiệp cho người học và người sử dụng, nhưng mỗi khu vực thực hiện một số công việc có sự khác biệt nhất định và việc đáp ứng nhu cầu người học, người sử dụng cũng có sự khác biệt. Sự xuất hiện và phát triển của khu vực tư thục trong hệ thống giáo dục nhằm bổ trợ những khiếm khuyết cho khu vực công lập. Về mặt kinh tế xã hội, đóng góp của khu vực tư thục giúp xã hội đạt được bốn mục tiêu sau đây:
14
- Giảm bớt gánh nặng cho công quỹ, giải phóng nguồn lực để phát triển số lượng hay nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo.
- Tăng cường hiệu quả trong các trường công lập bằng cách khuyến khích ý thức về phí tổn và sử dụng tốt hơn các nguồn lực.
- Tăng cường trách nhiệm của các cơ sở đào tạo bằng các mối liên kết hệ thống giáo dục ĐH-CĐ với các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ….
- Tăng tính công bằng vì những người được hưởng giáo dục phải đóng góp vào những chi phí đó.
1.1.2. Vị trí và đặc điểm của đại học, cao đẳng tư thục trong hệ thống giáo dục của một quốc gia
1.1.2.1. Vị trí của ĐH-CĐTT trong hệ thống giáo dục
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống giáo dục tư nhân tồn tại song song với hệ thống giáo dục công lập. Nhưng do sự khác biệt về chế độ chính trị, chính sách của nhà nước, và mức quan tâm của cộng đồng xã hội nên vị trí của hệ thống giáo dục tư thục trong tổng thể hệ thống giáo dục quốc gia sẽ có sự khác nhau nhất định. Ở các quốc gia thuộc Trung Đông và một số quốc gia ở Châu Á, hệ thống đại học tư đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực đào tạo nghề. Đối với Nhật và Hàn Quốc, sự phát triển gần đây của hệ thống giáo dục đại học chủ yếu nằm ở khu vực tư nhân. Ba Lan cũng là một ví dụ điển hình ở Châu Âu về sự phát triển hệ thống đại học tư.
Hệ thống giáo dục Đại học – Cao đẳng
Cơ sở giáo dục ĐH – CĐ công lập
Cơ sở giáo dục ĐH – CĐ ngoài công lập
Đại học quốc gia – Đại học vùng
TrườngĐH
-CĐ Trực thuộc Bộ GDĐT
Trường ĐH-CĐ,
Học viện ngành
Trường ĐH-CĐ
cộng đồng
Trường ĐH-CĐ
dân lập
Trường ĐH-CĐ tư
thục
Các trường ĐH-CĐ
bán công
Nguồn: Tác giả phục vụ cho nghiên cứu
Hình 1.2 Hệ thống giáo dục Đại học – Cao đẳng của Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, hệ thống giáo dục đại học cao đẳng cũng bao gồm các
15
trường công và trường tư. Điểm khác biệt là trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là thời gian đầu, nhà nước đã cho phép tồn tại các loại hình trường công lập và ngoài công lập, tuy nhiên, hiện nay đang tiến dần đến mô hình chỉ gồm hai loại hình trường là công lập và tư thục để phù hợp với xu hướng chung ở các nước.
1.1.2.2. Đặc điểm khu vực GDĐHCĐTT
Hệ thống đại học cao đẳng tư thục là một bộ phận của hệ thống giáo dục
ĐH-CĐ, nó là bậc học đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà
khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các
trình độ khác nhau. Giáo dục không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy, không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, theo phân công lao động xã hội, GĐĐH-CĐ là nơi duy nhất có đủ điều kiện và đủ khả năng cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng và trình độ chuyên môn cao cho nền kinh tế, làm gia tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội, gắn
liền
với sự bảo đảm
quyền
được sống và được làm việc
với năng suất lao
động cao hơn của mỗi người. Có thể tổng kết một số đặc điểm chính của hệ thống giáo dục đại học - cao đẳng tư thục như sau.
Chức năng của giáo dục đại học - cao đẳng. GĐĐH-CĐ có ba chức năng
quan trọng. Trước hết, nó bảo tồn các nền văn hóa và tri thức nhân loại, tái
tạo hoặc phản biện ý thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, lựa chọn những
người ưu tú giới thiệu cho xã hội và cuối cùng là sáng tạo ra kho tàng tri thức
mới. GĐĐH-CĐ không chỉ cải thiện những lựa chọn cá nhân sẵn có cho tất cả mọi người, mà còn tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết
chắt lọc và áp dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên
cứu khoa học vào sản xuất và đời sống, góp phần làm tăng năng suất lao động và
nâng cao mức sống cho toàn bộ các thành viên trong xã hội, góp phần xóa bỏ
khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo thông qua việc trang bị cho người học những tri thức và kỹ năng cần thiết để làm việc.
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là phương tiện. GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh tế hiện đại, đó là nền “kinh tế tri thức”, nó ngày càng có ý nghĩa quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai [17, tr.227-237]; là phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung. Là một phương tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội.
16
Lợi ích lan tỏa hay lợi ích tràn xã hội của giáo dục đại học-cao đẳng. Một đặc trưng riêng có của sản phẩm dịch vụ GDĐH-CĐ là lợi ích lan tỏa (hay còn gọi là lợi ích tràn xã hội) không chỉ bản thân cho người học mà cho cả cộng đồng, do
vậy khu vực GDĐHCĐTT cũng không loại trừ hiệu ứng đó. Bởi vì những sản
phẩm dịch vụ GDĐH-CĐ với trình độ cao này có thể sẽ đem lại những thành tựu khoa học công nghệ vượt bậc, đưa năng suất lao động tăng cao một cách đột biến hoặc tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng chất xám cao. Ngoài ra, loại sản phẩm của dịch vụ này là những người công dân có ích với chính mình, có
trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Những sản phẩm
như vậy
được
gọi là loại hàng hóa có ngoại biên thuận. Nó không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân.
Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như loại sản
phẩm này được sản
xuất
nhiều hơn. Đối với các lợi ích của xã hội có được từ giáo dục đại học, ngoài cá nhân và gia đình, xã hội phải nhận được những lợi ích này. Rất khó để xác định, định lượng và tính toán những lợi ích đó. Do đó có rất nhiều tranh luận và sự phỏng đoán về việc chúng có tồn tại không và tại sao chúng tồn tại trong giáo dục đại học [1, tr 86]
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một quan hệ sản xuất xã hội. GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng có nội dung của quan hệ sản xuất xã hội, bởi vì giá cả dịch vụ này trong KTTT không hoàn toàn phản ánh sự khan hiếm mà nó phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
- Trước hết, cung và cầu của nó thường phụ thuộc vào sự khác biệt về mức lương hay thu nhập (giữa người có và không có văn bằng đại học).
- Tiếp theo là khả năng thành công trong việc tìm kiếm công ăn việc làm trong khu vực công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, thương mại hoặc một loại dịch vụ nào đó (tỷ lệ thất nghiệp của người có hoặc không có văn bằng đại học).
- Sau nữa là các chi phí trực tiếp liên quan đến giáo dục (chẳng hạn như học phí và lệ phí).
- Cuối cùng là chi phí cơ hội hay chi phí gián tiếp liên quan đến giáo dục (số tiền người sinh viên có thể thu được nếu không đi học).
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một hàng hóa đặc biệt. GĐĐH- CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng còn là một loại hàng hóa đặc biệt vì có những đặc tính của hàng hóa (lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân, có tính bền vững đi theo suốt cuộc đời con người và người mua cuối cùng cũng là
người tiêu thụ). Trong KTTT có thể xảy ra các tình huống sau: (1) Vì mục tiêu
lợi nhuận ngắn hạn, một số cơ sở
đào tạo
có thể
cung cấp những người tốt
nghiệp thiếu chất lượng; (2) KTTT có thể sẽ làm cho một bộ phận người trở lên nghèo hơn nên không có khả năng chi trả học phí, mặc đù có năng lực học tập.
17
Cho dù trường hợp nào đi nữa xảy ra, để vừa hạn chế các tổn phí giao dịch trong
thị trường lao động do chất lượng đào tạo thấp, vừa bảo đảm cơ hội học tập
đại học ngang nhau cho mọi cá nhân trong xã hội, hệ thống giáo dục phải có sự can thiệp của nhà nước. Nói khác đi, xét dưới ý niệm công bằng xã hội, sản phẩm giáo dục là một hàng hóa mà chính phủ phải can thiệp mạnh mẽ vào thị trường thông qua các biện pháp như: Tài trợ trực tiếp cho đào tạo, nghiên cứu khoa học; khuyến khích tư nhân (kể cả tư nhân nước ngoài) đầu tư phát triển GĐĐH-CĐ, nhất là đưới hình thức không vụ lợi và điều tiết chất lượng kể cả lĩnh vực công cũng như tư.
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một dịch vụ. Trong nền KTTT,
GĐĐH-CĐ nói chung và GDĐH-CĐ tư thục nói riêng được thực hiện dưới hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và người học mua lao động của người dạy bằng phí, học phí, hoặc đóng thuế để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dưới góc độ phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư bản. Theo K.Marx, đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi, nó được mua- bán như một dịch vụ và hàng hoá thông thường. Như vậy, sản phẩm GĐĐH-CĐ là một loại dịch vụ và nó có đầy đủ tính chất kinh tế như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác. Thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ có một số ưu điểm chính sau:
- Một là, cơ chế thị trường làm cho dịch vụ GĐĐH-CĐ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ từng bước giảm bớt sự tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành trường đại học; chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và gia đình; gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp thông qua cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn hay lập các công ty dịch vụ hoặc kinh doanh bên trong trường đại học,
đồng thời các giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian doanh nghiệp...
ở các
- Hai là, cơ chế thị trường làm cho hệ thống giáo dục có khả năng thích nghi và sáng tạo hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hoặc sinh viên những người được hưởng lợi cuối cùng của loại hình dịch vụ này.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, thị trường dịch vụ sản phẩm GĐĐH-CĐ cũng đầy rẫy những rủi ro và bất trắc. Nó có thể làm xói mòn trách nhiệm xã hội, văn hóa và các mục tiêu của nó. Vì nó chỉ đáp ứng các lợi ích và chi phí mà thực tế xuất hiện trong quan hệ cung - cầu của người mua và người bán nên trong ngắn hạn, với việc tập trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, nó có thể phá
hỏng các mục tiêu và giá trị của giáo dục tự do và những tìm tòi lý thuyết cơ
18
bản. Cơ chế giá trong thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ có thể dễ bị bóp méo.
Các loại hình dịch vụ giáo dục đại học - cao đẳng. Mong đợi của chúng ta có thực tế với các loại hình dịch vụ mà giáo dục đại học cần cung cấp không, tất nhiên là đúng. Một nền công nghiệp có thể sản xuất ra bất cứ loại hình dịch vụ hỗn hợp nào mà xã hội chúng ta muốn sản xuất. Vấn đề kinh tế quan trọng có liên quan đến việc các cơ sở đào tạo này đáp ứng mong muốn và nhu cầu của xã hội về dịch vụ này như thế nào. Phân tích kinh tế đưa ra câu hỏi là cơ cấu hiện tại của các trường đại học cho phép họ đáp ứng các yêu cầu xã hội như thế nào. Nhìn chung, thông qua hệ thống kinh tế, người sử dụng đăng ký nhu cầu hàng hóa dịch vụ của họ theo cách mà họ sử dụng khả năng mua hàng của họ. Những nhà cung cấp dịch vụ phản ứng lại các mức giá. Đây không phải là cách mà sự kết hợp giữa các chương trình do các trường đại học và cao đẳng cung cấp được xác định.
Các trường đại học và cao đẳng ít khi hoặc không sử dụng hệ thống giá hoặc các lực lượng thị trường trong việc xác định những chương trình mà họ sẽ cung cấp. Họ thường cố gắng cung cấp những gì họ cho rằng xã hội có nhu cầu – kinh doanh, cơ khí, tin học, v.v…Tất nhiên, mong muốn của sinh viên và gia đình họ phải được xem xét; nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhập học. Ngoài ra, những đề nghị của cơ quan lập pháp cũng rất quan trọng. Cơ quan này có thế cắt các khoản hỗ trợ để mở rộng những chương trình mà đa số các thành viên không thông qua. Trong các trường tư, những nhà tài trợ chính có ảnh hưởng tới việc lựa chọn chương trình, tuy nhiên, lợi ích của sinh viên và gia đình có con theo học được coi là quan trọng nhất, vì đó chính là nguồn thu chủ yếu của nhà trường [1, tr.98].
Hệ thống giá trị bỏ qua hoàn toàn hoặc không được tính đến trong việc xác định những ưu tiên của chương trình vì hầu hết các trường đại học và cao đẳng áp dụng mức giá (học phí) giống nhau đối với tất cả sinh viên, bất kể là chương trình gì. Những người quản lý và các khoa trong trường đại học và cao đẳng, nhà lập pháp, và bản thân sinh viên tin rằng đây chính là cách hợp lý để vận hành hệ thống. Tuy nhiên một sự phản ánh nhỏ sẽ bộc lộ sự thiếu hiệu quả của nó.
Sự khác biệt về giá dựa trên sự khác biệt trong nhu cầu ví dụ xét hai
chương trình đào tạo đại học, quản trị kinh doanh và nông nghiệp. Giả sử ban đầu
sinh viên có nhu cầu về chương trình nông nghiệp được thể hiện bằng Da1Da1
trong Hình 1.3. Chi phí cho một người một năm bao gồm tất cả các chi phí trừ các chi phí vô hình đối với sinh viên cho một năm của chương trình. Đường cầu cho chương trình nông nghiệp sẽ dốc xuống dưới về phía bên phải giống như hầu hết các đường cầu – giá của chương trình càng thấp, thì sinh viên sẽ có nhu cầu nhiều năm hơn. Đường cung Sa1Sa1 của chương trình nông nghiệp sẽ dốc lên trên về bên