147
phủ cần có hướng dẫn quy đin
h thực hiện sự chuyển đổi
các trường tư thục do
các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty quản lý nhằm thực hiện chủ trương chuyển
đổi các loại hình trường dân lâp
, tư thuc
của Nhà nước. Xây dưn
g các quy định
đảm bảo rằng khi các tổng công ty thực hiện cổ phần hóa, việc chuyển đổi các trường công trực thuộc sang hoạt động theo mô hình tư thục, mà trong chừng mưc̣ là quá trình tư nhân nhân hóa, thì lợi ích nhà nước và người học được bảo vệ.
Để thực hiện xã hội hóa giáo dục, Nhà nước cần quy định vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân tham gia giám sát và đánh giá khu vực GDĐHCĐTT, phối hợp với các trường thực hiện các mục tiêu nhà trường, xã hội và quốc gia
148
Bảng 3.5 Đôi
mơi
hệ thống đại học, cao đẳng tư thục
Kiể u trả lời | Trung bình (M) | Độ lệch chuẩn (S.D.) | Tần suất trả lời (%) | ||||
4 | 3 | 2 | 1 | ||||
1. Muc̣ tiêu ưu tiên của GDĐH-CĐ đêń năm 2020 là chất lượng đaṕ ưń g kip̣ thơì yêu cầu phat́ tiển kinh tế và đam̉ baỏ công bằng | Đ | 3,55 | 0,64 | 61 | 28 | 8 | 0 |
2. Bộ GD&ĐT giữ vai trò chủ đaọ trong việc ban haǹ h các văn bản điêù chin̉ h trường ĐH-CĐ ngoaì công lâp̣ | Đ | 3,05 | 0,76 | 29 | 44 | 2 2 | 1 |
3. Mong đợi ban hành Luật trường tư | M | 3,51 | 0,66 | 56 | 31 | 6 | 1 |
4. Đến năm 2020, đoń g goṕ taì chiń h cho GDĐH-CĐ từ nguồn thu ngoaì NSNN sẽ như thế naò | M | 3,02 | 0,58 | 15 | 70 | 9 | 2 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Trình Quản Lý Và Kiểm Định Chất Lượng
- Xu Hướng Vận Động Của Một Số Chỉ Tiêu Cần Dự Báo
- Các Nguyên Tắc Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hệ Thống Đại Học Cao Đẳng Tư Thục
- Quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam - 21
- Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Về Công Tác Đao Viên Và Công Tác Tài Chính
- Đối Các Ubnd Các Tỉnh, Thành Phố, Các Bộ Ngành Có Liên Quan
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
Ghi chú: Kết quả khảo sát các nhà quản lý giáo dục; Kiểu trả lời, Đ: Đồng ý; G: Gia tăng; Tần suất trả lời, 4: Tích cực nhất, 1: Không tích cực
3.2.1.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục
Trước hết, hoàn thiện cơ chế và chính sách đòi hỏi xây dựng khung pháp lý nhằm đảm bảo sự can thiệp phù hợp của Nhà nước. Yêu cầu này có thể thực hiện theo hai cách, i) hoặc là các cơ quan QLNN thu hẹp thẩm quyền, ii) hoặc là tăng quyền tự chủ của trường đại học cao đẳng. Việc kết hợp cả hai cách thì phù hợp với khung cảnh thể chế mang tính tập trung ở nước ta hiện nay. Cần sớm điều chỉnh các quy định có thể dẫn tới các can thiệp không cần thiết từ gốc độ quản lý vĩ
mô của các cơ quan QLNN về giáo dục. Nhà nươc
cân
thể chế hóa nguyên tắc đảm
bảo sự chủ động cao của trường, dành quyền ra quyết định nhiều nhất cho cấp trường cũng là giải pháp tích cực. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi năng lực tự quản cao
trong khi năng lực tự chủ lại là điểm yếu của nhiều trường đại học cao đăn nay ở Việt Nam.
g hiên
Tiếp theo, các cơ quan QLNN tiến hành rà soát để từng bước bãi bỏ các quy
định trao quyền theo kiểu đặc quyền, nhât
là đôi
vơi
cac
trươn
g công lâp
. Các quy
định này thường được ban hành thông qua văn bản dưới luật có tính cá biệt, ví dụ
như
các quy định về
trường công lâp
trọng điểm, trường quốc tế hay đào tạo
chương trình tiên tiến. Về nguyên tắc là không nên duy trì việc hình thành một nhóm trường có quyền và lợi thế riêng nào đó mặc dù điều này có thể được lý giải là để đáp ứng yêu cầu thực hiện các ưu tiên và chiến lược quốc gia. Bởi vì
149
làm như thế sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các tổ chức giáo dục đại học. Giải pháp tích cực là thay vì quy định quyền hạn và trách nhiệm mang tính đặc quyền, Nhà nước có thể áp dụng các chính sách cạnh tranh để thúc đẩy sự tham gia thực hiện các ưu tiên và chiến lược quốc gia của toàn hệ thống đại học. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên sớm xây dựng khung pháp lý cho loại hình trường có yếu tố nước ngoài hay cho các chương trình “nhập cảng” nhằm đảm bảo công bằng trong đào tạo đối với các trường tư thục. Đây là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Thứ ba, là cần tập trung hoàn thiện quy định quản lý về học thuật để giúp
các trường đại học tự
chủ
một cách triệt để
và mang tính hệ
thống hơn. Bộ
GD&ĐT cần quy định việc quản lý chương trình đào tạo theo khung chương trình thay vì theo chương trình khung như hiện nay. Theo đó, Bộ chỉ cần quy định về cấu trúc, cơ cấu và khối lượng kiến thức tối thiểu; khung thời gian đào tạo; quy trình xây dựng chương trình và nhất là điều kiện học thuật tối thiểu cần phải có. Nhà nước cũng cần quy định chuẩn khoa học khung trình độ và tiêu chuẩn năng lực đào tạo cho từng ngành đào tạo để làm cơ sở xem xét việc mở và giao quyền mở ngành đào tạo, nhất là đối với ngành chưa có trong danh mục ngành đào tạo. Ngoài ra, cần ban hành chính sách khuyến khích vật chất đối với các trường mở chương trình đạo tạo đáp ứng tốt nhu cầu xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo trong nền KTTT, xây dựng xã hội học tập và bảo đảm sự thuận tiện trong hoạt động đào tạo của trường đại học cao đẳng,
Nhà nước cần hướng dẫn công nhận giá trị
chuyển đổi kết quả
học tập của
người học. Tránh hiện tượng phân biệt giữa các trường công lập với tư thục.
Trong quản lý tuyển sinh, Bộ GD&ĐT cần quy định điều kiện tối thiểu vào học đại học. Tuy nhiên, về lâu dài thì cần quy định và sử dụng một hệ thống đánh giá trình độ đa dạng, có thể thay thế cho nhau, để làm cơ sở cho việc xét tuyển vào đại học cao đẳng. Sớm quy định tiêu chuẩn xét tuyển và xác định chỉ tiêu tuyển trên cơ sở dựa trên điều kiện đảm bảo chất lượng, chế độ công khai thông tin tuyển sinh, sự thanh tra và kiểm tra chặt chẽ, nhất là dựa trên chính sách định hướng tuyển sinh thông qua việc cấp học bổng hay tín dụng cho người học. Quy định quy trình tuyển công khai cũng là biện pháp cần thiết. Đặc biệt, cần quy định cấm hành vi phân biệt đối xử cũng như chế tài nghiêm khắc đối với hành vi sai phạm trong tuyển sinh nhằm đảm bảo quyền lợi cho các trường tư thục.
Trong quản lý bằng cấp, cần quy định về điều kiện hay tiêu chuẩn cấp văn bằng cũng như về công nhận tương đương văn bằng. Ngoài ra, để các trường đại học cao đẳng tư thục chủ động trong hoạt động hợp tác quốc tế, Nhà nước cần nghiên cứu trao quyền cho các trường có đủ năng lực hợp tác để tăng cường sự
150
chủ động và sáng tạo của các trường.
Thứ tư, đó là hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến công tác đảm bảo chất lượng GDĐH-CĐ nói chung và kiểm định chất lượng nói riêng. Các cơ quan QLNN có thẩm quyền thực hiện rà soát và ban hành quy định và thủ tục liên quan đến việc thành lập trường đại học nhằm bảo đảm trường được thành lập đạt yêu
cầu về chất lượng. Đặc biệt, cần phân định rõ trách nhiệm và việc chịu trách
nhiệm trong quyết định thành lập trường. Ban hành quy định bắt buộc các trường phải chịu sự kiểm tra trên thực tế khi mở ngành đào tạo mới; hạn chế tối đa việc cho “nợ” các điều kiện đảm bảo chất lượng.
Việc quy định thực hiện kiểm định chất lượng bắt buộc (tối thiểu) và xếp hạng định kỳ để bảo đảm tất cả các trường được kiểm định chất lượng định kỳ trong một khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm thì cũng cần thiết. Đồng thời gấp rút ban hành quy định về tổ chức kiểm định độc lập nhằm đẩy nhanh tiến độ đánh giá ngoài và công nhận các trường đại học và các chương trình giáo dục đạt chuẩn chất lượng. Đặc biệt, quy định phân cấp việc quản lý và triển khai đánh giá chất lượng, tổ chức hoạt động kiểm định chất lượng độc lập hoạt động theo mô hình doanh nghiệp và đánh giá các tổ chức tham gia các hoạt động đánh giá và kiểm định. Cũng không thể thiếu quy định bảo đảm cơ cấu tổ chức và hoạt động Hội đồng Quốc gia Kiểm định Chất lượng có sự tham gia nhiều hơn của các thành phần từ ngoài khu vực nhà nước, nhất là các hiệp hội nghề nghiệp.
Thứ năm, ban hành chính sách khuyến khích các trường tư thục chủ động
tham gia đánh giá chương trình, kết quả
thực hiện, kể
cả tham gia kiểm định
trường, chương trình với các tổ chức đánh giá và kiểm định quốc tế. Cần có chính sách bảo đảm sự tham gia hỗ trợ và giám sát chất lượng của lực lượng xã hội. Nhất là có chính sách lâu dài tiến tới hình thành văn hóa chất lượng.
Cuối cùng, cần pháp lý hóa trách nhiệm lãnh đạo và chịu trách nhiệm về lãnh đạo của tổ chức Đảng ở từng cấp quản lý trường đại học tư thục, nêu cao vai trò
của các tổ chức quần chúng trong nhà trường. Hướng dẫn và quy định cụ thể
thẩm quyền và cơ chế phối hợp trách nhiệm giữ tổ chức Đảng và Hội đồng quản trị, đặc biệt là trách nhiệm của người đại diện cho tổ chức Đảng tham gia vào
Hội quản trị trường nhằm giúp Hôi
đôn
g quản trị có thể thực hiện chức năng quan
trị cao nhất. Biện pháp mang tính kỹ thuật hơn là định lại cơ cấu thành viên trong việc ra quyết định của Hội đồng quản trị.
3.2.1.3. Xây dựng và ban hành Luật Giáo dục đại học tư thục, Luật Giảng viên
Thực trạng QLNN về khu vực GDĐHCĐTT cho thấy chủ trương, chính sách
151
phát triển hệ thống các trường tư thục khó đi nhanh vào cuộc sống. Điều này còn liên quan nhiều vấn đề khác về thể chế, tổ chức hay lợi ích. Các quy định trong quản lý cụ thể bằng các văn bản dưới luật, đôi khi chồng chéo, không đủ để tạo
môi trường pháp lý cho sự phát triển chủ động của trường đại học cao đăng cũng
như để xác lập trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong thúc đẩy, bảo vệ quyền tự chủ của các trường tư thục. Do đặc thù của các trường tư thục, việc xây dựng và ban hành văn bản luật làm cơ sở pháp lý chung để quản lý và phát triển khu vực GDĐHCĐTT là rất cần thiết, nhất là trong điều kiện KTTT và hoạt động GDĐH- CĐ ngày càng phức tạp. Do đó trong thời gian tới cần phải khẩn trương soạn thảo và ban hành hai luật sau:
a. Xây dựng và ban hành Luật Giáo dục đại học tư thục
Trên thực tế hoạt động của các trường đại học cao đẳng tư thục vừa mang tính chất của một cơ sở đào tạo nhưng mặt khác cũng mang tính chất của một công ty cổ phần (vì nhận sự đóng góp tài chính của các cổ đông) nên cần phải có hệ thống luật để điều chỉnh riêng cho đối tượng đặc thù này. Nói cách khác là cần
sớm xây dựng và ban hành luật Giáo dục đại học tư nhằm điều chỉnh hoạt đông
với những đăc
thù riêng có của cac
trường tư thục. Kết quả khảo sát qua muc
3 bang
3.7 cho thây
có đến 92,5% cac
nhà quan
lý mong muôn
nhà nươc
cho soan
thao va
ban hành sớm Luật giáo dục đại hoc tư thuc.̣ Luật Giáo dục đại học tư thục là luật
pháp quốc gia nên phải đảm bảo khuôn khổ chiến lược dài hạn, cần được tách bạch với điều lệ trường và quy chế của trường đại học [64, tr.50]. Luật này có thể điều chỉnh nhiều quan hệ, nhưng nội dung chủ yếu phải đảm bảo một số quy định sau:
- Đảm bảo sự phối hợp lợi ích trong khuôn khổ chiến lược quốc gia, phù
hợp với quy định chung của toàn hệ thông, nhất là tránh việc tạo ra những rào cản
làm hạn chế sự linh hoạt của người học và của trường đại học cao đẳng tư thục.
- Sự công nhận của Nhà nước đối với trường đại học cao đăn tương đương bằng cấp.
g tư thuc
và sự
- Tạo điều kiện và khuyến khích phát triển các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục ngoài nhà nước, bảo đảm quản lý được các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là vấn đề mang tính cấp bách trong bối cảnh mà Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào sân chơi toàn cầu hóa.
- Xác định rõ địa vị pháp lý của cơ sở giáo dục đại học tư thục như thực thể pháp lý độc lập, phân định rõ địa lý pháp lý của các trường vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận và cần phải làm rõ hai vấn đề này. Đảm bảo tính trực tiếp và cụ thể của các quyền tự chủ tới mức có thể đối với các vấn đề về học thuật của trường
152
đại học để thay thế các quy định mang tính khung và đan xen như hiện nay. Các trường có thể sử dụng trực tiếp quyền của mình mà không cần phải chờ cho phép lại của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời khi xây dựng luật cần phù hợp thông lệ quốc tế và cách hiểu chung, nhất là đảm bảo tính thống nhất và hệ thống. Quy định có sự phân định giữa trách nhiệm pháp lý, hành chính và xã hội, cần xác định rõ nội dung và cách thức chịu trách nhiệm.
- Quyền và trách nhiệm của Hội đồng quan
tri,
nhất là mối quan hệ giưa
chu
tịch HĐQT và Hiệu trưởng, quan hệ giữa các cơ quan quản lý trong nhà trường.
- Chức năng và thẩm quyền của các cơ quan QLNN và các tổ chức chuyên
môn tham gia quản lý các trường đại học cao đăn
g tư thuc
; chức năng quản lý chủ
yếu mà Nhà nước cần nắm giữ để giám sát có hiệu quả các trường.
- Quản lý, kiểm định chất lượng và đánh giá kết quả thực hiện của trường
đại học cao đẳng tư thuc và kết nối các kết quả này với các trường đại học công
lập, các chính sách KT-XH khác.
- Việc thiết lập hệ thống công tác tài chính; quyền sở hữu; việc ban hành tiêu chuẩn công nhận và chứng nhận hoạt động của các loại trường đại học tư.
- Việc kiểm tra và giám sát của Nhà nước, công cụ được sử dụng chính thức cho toàn hệ thống.
Kết quả khảo sát ý kiến các nhà quản lý trong và ngoài ngành giáo dục qua Bảng 3.6, Mục 4, cho thấy 89,5% ý kiến (M=3,43) mong muốn xác lập trường đại học là thực thể pháp lý tự chủ độc lập thông qua luật. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa ý kiến các nhà quản lý trường đại học (M=3,50) và các nhà quản lý
bên ngoài trường (M=2,96) cho thấy đòi hỏi tự trường nhiều hơn của các nhà QLNN.
b. Xây dựng và ban hành Luật giảng viên
chủ
của các nhà quản lý cấp
Trong tương lai gần, đội ngũ giảng viên cần được tiêu chuẩn hóa về chuyên môn và hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời, mối quan hệ lao động và việc làm trong các trường đại học có thể sẽ đơn giản hơn nhưng trở nên nguy hiểm xét ở cả phương diện truyền thống và kinh tế. Khi mối quan hệ lao động giữa giảng viên và nhà trường thay đổi, chủ yếu dựa trên các hợp đồng lao động thì cũng là lúc vị thế “người nhà nước” của giảng viên trường tư thục là không có. Giảng viên có thể bị sa thải không phải do năng lực kém mà là do vấn đề tài chính và các vấn đề khác. Địa vị xã hội có tính truyền thống của nhà giáo sẽ thay đổi. Điều này đòi hỏi phải phải xây dựng và ban hành Luật giảng viên (hay hệ thống quy định về giảng viên) áp dụng chung cho cả các trường công lập và tư thục. Yêu cầu khách quan này được thực hiện sẽ giúp cho các quy định về giảng viên với địa vị như hiện nay được bảo vệ. Bên cạnh những quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, thì luật giảng viên tối thiểu, cần đề cao hơn nữa vai trò và trọng
153
trách người thầy trong trường đại học cao đăn
g vơi
bối cảnh mới của đất nước.
Điều này cần được thể hiện qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý chính thức. Đặc biệt, cần bảo vệ và phát huy quyền và nghĩa vụ của người dạy, nhất là tự chủ học thuật và sáng tạo của nhà giáo, nhà nghiên cứu trong trường đại học tư thục
và cả công lập. Đảm bảo thẩm quyền khoa học độc lập của nhà giáo và nhà
nghiên cứu. Đồng thời khẳng định và phát huy được yếu tố con người. Trong đó cần được nhấn mạnh trong luật giảng viên một số quy định như:
- Quyền và trách nhiệm tự chủ về học thuật của giảng viên, việc tham gia các hoạt động chuyên môn bên ngoài nhà trường và bên ngoài quốc gia, trách nhiệm sáng tạo và chuyển giao tri thức mới cho cộng đồng.
- Tiêu chuẩn về chuyên môn và nghề nghiệp làm cơ sở cho việc tuyển chọn, xác định chức trách nhiệm vụ giảng viên.
- Cách thức xác định, phân bổ và kiểm soát khối lượng giảng dạy, nghiên cứu (lao động chuyên môn) với các quy chuẩn cụ thể.
- Tiêu chuẩn, quy trình xem xét bổ nhiệm và thời hạn duy trì các chức danh.
- Khuyến khích sự nâng cao trình độ chuyên môn của giảng viên.
- Trình tự nhận xét, đánh giá giảng viên chính thức.
- Nội dung và hình thức bảo vệ và tự bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của giảng viên.
Một số biện pháp cụ thể cần thực hiện cho đến khi ban hành luật về giảng viên là cần quy định chuẩn nghề nghiệp, việc lựa chọn, tuyển dụng, đánh giá và trả lương cho giảng viên. Có chính sách khuyến khích trả lương theo chất lượng, thành tích hay hiệu quả công việc nhằm tạo động lực thúc đẩy và tăng tính chủ động trong giảng dạy và nghiên cứu; kích lệ tính tự chủ học thuật. Ngoài ra, cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ việc nâng cao năng lực ra quyết định của các cấp quản lý trường, thúc đẩy sáng kiến cải tiến liên tục nhằm tạo động lực phát triển trường đại học, cao đẳng.
Để bảo đảm khu vực GDĐHCĐTT phát triển công bằng, hiệu quả và chất lượng, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các chính sách dưới đây:
- Công bằng trong GDĐH-CĐ, đảm bảo sự tiếp cận trong giáo dục dựa trên các tiêu chuẩn và tiêu chí công bằng và hiệu quả.
- Khuyến khích các trường phát triển các chương trình đào tạo và nghiên cứu đa dạng.
- Thiết lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của mọi loại hình trường công lập và tư thục.
- Tạo sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ giảng viên thông qua việc thực hiện chế độ hợp đồng lao động. Nâng cao năng lực đội ngũ
154
giảng viên, cho cả tư thục và công lập.
- Đa dạng hóa các nguồn lực tài chính cho các trường đại học.
- Hỗ trợ cho người học theo đuổi các chương trình đào tạo thông qua các hình thức trợ giúp đa dạng như cho vay, cấp học bổng, hỗ trợ chổ ở v.v...
- Phân bổ nguồn lực minh bạch, thúc đẩy việc tăng cường chất lượng và hiệu quả. Trợ cấp ngân sách rõ ràng để giúp các trường hoạt động chủ động.
- Bảo đảm tự chủ theo cách tăng nguồn lực sử dụng và ấn định quy mô sinh viên.
- Đảm bảo chất lượng, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng đối với giảng viên và đánh giá kết quả thực hiện của trường tư thục, duy trì sự tương xứng và đẩy mạnh hoạt động gắn đào tạo với sử dụng.
- Cơ chế phối hợp giữa Nhà nước và xã hội. Khuyến khích sự tham gia của
các tổ
chức ngành nghề, nghề
nghiệp, hội khoa học vào các phần việc hỗ trợ
quản lý các trường đại học có tính chuyên môn như kiểm định, đánh giá, tư vấn hay phản biện khoa học. Qua đó, góp phần tăng sự đồng thuận xã hội và cộng đồng trách nhiệm trong hoạt động GDĐH-CĐ.
3.2.2. Đổi mới mô hin
h quan
lý nhà nươc
đôi
vơí khu vực giáo dục đại
học cao đẳng tư thục
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đòi hỏi công tác quản lý nhà nước phải tự điều chỉnh về vai trò và nội dung quản lý. Sự điều chỉnh đó thể hiện qua hoạt động quản lý bằng các chính sách vĩ mô, trong đó cần xây dựng được chính sách
cụ thể và rõ ràng, bảo đảm ba yếu tố chất lượng, hiệu quả, công bằng. Xây dưng
mô hình QLNN đối với HTĐHCDTT theo hướng giám sát cua nhà nước kết hợp
với mô hình dựa vào thị trường như đã phân tích tại mục 1.2.5, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của thế giới để cải tiến mô hình cho phù hợp hơn. Cần tách bạch giữa vai trò QLNN ở tầm vĩ mô với công việc quản lý của nhà trường, gắn với việc sửa đổi, bổ sung cơ cấu và quá trình QLNN. Trong chừng mực nào đó, nó gắn với việc thiết lập khuôn khổ hay mô hình QLNN mới: Mô hình QLNN đối với khu vực GDĐHCĐTT bảo đảm vận hành có hiệu quả. Mô hình này nhắm tới việc tạo môi trường mà trong đó cơ cấu và quá trình quản lý của Nhà nước bảo đảm
cho các trường tư thuc, dù là cơ quan của nhà nước hay tổ chức nhà nước có tính
độc lập, được quản lý và điều hành theo cách riêng của mình. Đương nhiên, phải phù hợp với quy định pháp luật.
Mô hình được xây dưng trên cơ sở cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền quản
lý các trường đại học cao đăn
g tư thuc
, tách bạch việc ban hành và thực thi chính
sách GDĐH-CĐ. Theo mô hình này, cơ câu
tổ chưc
và thẩm quyền gồm có ba lơp:
lớp QLNN về GDĐH-CĐ; lớp quản lý trung gian và lớp quản lý trường ĐH-
CĐTT. Từ những tìm hiểu và phân tích trên theo chúng tôi quản lý nhà nước đối