Sơ Đồ Các Bước Đánh Giá Cảnh Quan Phục Vụ Quy Hoạch Lãnh Thổ

- Trong đánh giá thì mặt tự nhiên là chính, nhưng việc lựa chọn phương án quy hoạch cần cân nhắc toàn diện các mặt hệ quả khi thực hiện phương án, lợi ích trước mắt và lâu dài, hiệu quả kinh tế và sự bền vững của môi trường sinh thái, môi trường xã hội và nhân văn.

- Quá trình đánh giá - quy hoạch là một chu trình khép kín, lặp đi lặp lại nhiều lần.

- Bất cứ một dự án quy hoạch nào, một dự án công trình kinh tế kỹ thuật nào, trong luận chứng kinh tế kỹ thuật cần kèm theo báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đó cũng là nội dung của dự báo địa lý.

Mô hình đánh giá cảnh quan gồm các bước:

1) Xác định mục tiêu, nhiệm vụ đánh giá.

2) Thu thập tài liệu, kiểm kê các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; hiện trạng sử dụng.

3) Đánh giá tổng hợp môi trường tự nhiên.

4) Đề xuất hệ địa kỹ thuật.

5) Đề xuất phương án sử dụng, định hướng quy hoạch lãnh thổ.

6) Đề xuất quy hoạch - tổ chức lãnh thổ và sử dụng phương án tối ưu. Từ những nội dung mang tính lý luận trên đây, có thể thấy:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

- Đối với công tác đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên là nhiệm vụ chủ yếu của cảnh quan ứng dụng.

- Việc lựa chọn phương pháp, thang bậc hay hệ thống các chỉ tiêu đánh giá rất phức tạp, phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phân hóa và đa dạng của tự nhiên cũng như sự hiểu biết của nhà địa lý.

Cảnh quan địa lý ứng dụng Phần 1 - 10

- Ngoài ra, cùng với thời gian, các kết quả ứng dụng còn phải được xem xét và kiểm nghiệm bằng thực tế và được điều chỉnh lại cho phù hợp với từng ngành sản xuất, kinh tế cụ thể trên lãnh thổ nghiên cứu.

Các kết quả nghiên cứu của cảnh quan ứng dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực đối với các vấn đề thực tiễn như nghiên cứu sự kết hợp tài nguyên thiên nhiên theo lãnh thổ và xác định các phương án sử dụng có hiệu quả (vừa khai thác, sử dụng hợp lý vừa bảo vệ); bố trí không gian, định hướng phát triển các ngành sản xuất

75

kinh tế theo lãnh thổ; vấn đề bảo vệ, tái tạo và phát triển bền vững; vấn đề quy hoạch và tổ chức lãnh thổ.

Sự phát triển của cảnh quan ứng dụng đã nâng cao vị trí của khoa học địa lý và góp phần vào sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của các quốc gia và cả thế giới.



Hình 2.3. Sơ đồ các bước đánh giá cảnh quan phục vụ quy hoạch lãnh thổ

2.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN ỨNG DỤNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

2.4.1. Các công trình nghiên cứu cảnh quan ứng dụng trên thế giới

2.4.1.1. Các công trình nghiên cứu theo hướng cảnh quan

Nền móng của cảnh quan học đã được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX trong các công trình nghiên cứu, phân chia địa

76

lý tự nhiên bề mặt Trái đất của các nhà địa lý Nga như V.V. Docusaev,

L.X. Berge, G.N. Vưtxotski, G. F Morozov...

Đặc điểm sinh thái công trình đặc trưng kỹ thuật-công nghiệp của các ngành sản xuất

ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP

Xác định mức độ thích hợp của các thể tổng hợp tự nhiên đối với các mục tiêu thực tiễn cụ thể

Từ giữa thế kỷ XX, trường phái này phát triển mạnh ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Các công trình thuộc hướng này tiến hành đo vẽ cảnh quan cho việc đánh giá, quy hoạch sử dụng đất nông-lâm nghiệp và cải tạo đất; điển hình một số tác giả như K.V. Pascan, G.Iu. Pritula (1980); B.A. Macximov (1978); K.B. Zvorưkin (1984). Cùng trường phái này còn có các công trình nghiên cứu của các tác giả ở Hungari như Marosi, Szilard (1964); ở Rumani như Grumazescu (1966), ở Ba Lan như Rozycka (1965)...


Đặc trưng các đơn vị tổng hợp tự nhiên lãnh thổ




Đề xuất các kiến nghị sử dụng hợp lý tài nguyên

thiên nhiên và bảo vệ môi trường

Hình 2.4. Mô hình đánh giá các đơn vị tổng hợp tự nhiên lãnh thổ

Quan điểm nghiên cứu, đánh giá là lấy học thuyết về cảnh quan làm cơ sở cho việc quy hoạch lãnh thổ nhằm sử dụng tối ưu hóa các đặc điểm sinh thái của cảnh quan và thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa sử dụng lãnh thổ, con người và môi trường. Đơn vị đánh giá là các địa tổng thể (hệ địa-sinh thái) theo hệ thống phân vị cảnh quan tương ứng

với phạm vi và mục đích đánh giá, có thể là các đơn vị phân vùng cá thể hoặc phân loại cảnh quan. Ví dụ, K.V. Pascan chọn “cảnh khu” (dạng địa lý). Phương pháp đánh giá tổng hợp thường bao gồm: Phương pháp mô hình chuẩn (mô hình hóa tối ưu), phương pháp bản đồ, phân tích tổng hợp, so sánh định tính và phương pháp thang điểm tổng hợp có trọng số...

Nhìn chung, trong các công trình đánh giá tổng hợp thường dựa trên mức độ thuận lợi của các yếu tố tự nhiên cho các đối tượng kinh tế trong sử dụng cảnh quan. Dạng mô hình đánh giá chung được thể hiện ở hình 2.4.

2.4.1.2. Các công trình nghiên cứu theo hướng đánh giá đất đai

Đất đai (Land) là tổng thể lãnh thổ tự nhiên bao gồm tất cả các thành phần của môi trường tự nhiên tham gia vào sự tạo thành đất và có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng tổng thể đó. Vì vậy, việc đánh giá đất đai (Land Evaluation) là xem xét so sánh khả năng sử dụng tổng thể đất đai với yêu cầu của loại hình sử dụng đất.

Hệ thống phân loại đánh giá đất đai do FAO đề xuất được ứng dụng trong đánh giá sử dụng đất cho nông, lâm nghiệp ở nhiều nước trên thế giới.

Khái niệm đánh giá đất và đất đai được dùng phổ biến trong các công trình về quy hoạch sử dụng đất đai. Trong nhiều công trình theo hướng này, việc nghiên cứu đánh giá phân hạng đất đai được tiến hành dựa trên điều kiện tự nhiên, lấy những tính chất tự nhiên của đất đai làm chỉ tiêu đánh giá, phân hạng sử dụng.

Từ những năm 50 của thế kỷ XX, con người bắt đầu thấy cần có những hiểu biết tổng hợp để đánh giá tiềm năng của đất đai (Land) cho các mục tiêu sử dụng đã được xác định. Vì vậy, việc đánh giá sử dụng đất đai được xem là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất (Soil). Từ mục đích đó, công tác đánh giá đất đai đã được nhiều nhà khoa học và nhiều tổ chức quốc tế quan tâm và đã trở thành một trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng phục vụ

tích cực cho việc quy hoạch, hoạch định chính sách đất đai và sử dụng đất đai hợp lý. Phương pháp và hệ thống đánh giá đất đai ngày càng hoàn thiện. Phổ biến là các hệ thống:

- Ở Hoa Kỳ: Phân loại khả năng thích nghi đất đai có tưới (Irrigation Land Suitability Classification) của Cục cải tạo đất đai thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ biên soạn năm 1951. Hệ thống phân loại bao gồm các lớp, từ lớp có thể trồng trọt được (Arable) đến lớp có thể trồng trọt được một cách giới hạn (Limited arable) và lớp không thể trồng trọt được (Non arable). Trong hệ thống phân loại này, ngoài đặc điểm đất đai, một số chỉ tiêu về kinh tế cũng được xem xét nhưng ở phạm vi thủy lợi.

Ngoài ra, phân loại theo khả năng đất đai (Land Capability) cũng được mở rộng trong công tác đánh giá đất đai ở Hoa Kỳ. Phương pháp này do Klingebiel và Montgomery đề nghị năm 1961. Trong đó, các đơn vị bản đồ đất đai được nhóm lại dựa vào khả năng sản xuất một loại cây trồng hay thực vật tự nhiên nào đó, chỉ tiêu chính là các hạn chế của lớp phủ thổ nhưỡng đối với các mục tiêu canh tác được đề nghị.

- Ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu: Việc phân hạng và đánh giá đất đai được thực hiện từ những năm 1960, qua 3 bước:

+ Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng: So sánh các loại thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên.

+ Đánh giá khả năng sản xuất của đất đai: Yếu tố đất được xem xét kết hợp với địa hình, khí hậu, độ ẩm đất...

+ Đánh giá kinh tế đất đai: Đánh giá khả năng sản xuất hiện tại của tự nhiên.

Phương pháp này thuần túy quan tâm đến khía cạnh tự nhiên của đối tượng đất đai, chưa xem xét đầy đủ khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai.

+ Đề cương đánh giá đất đai của FAO:

Từ những năm 70 của thế kỷ XX, song song với tiến trình thống nhất quan điểm về phân loại thổ nhưỡng, FAO đã tài trợ những chương

trình nghiên cứu có tính toàn cầu về đánh giá đất đai và sử dụng đất đai trên quan điểm lâu bền. Kết quả là một dự thảo đầu tiên về phương pháp đánh giá đất đai đã ra đời vào năm 1972. Dự thảo đã được nhiều quốc gia thử nghiệm và góp ý bổ sung, sau đó được Brinkman và Smyth biên soạn lại và in ấn năm 1973. Tại Hội nghị Rome 1975, các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO và các quốc gia khác (K.J.Beek, J.Bennema, P.J.Mabiler, G.A.Smyth...) đã tổng hợp kinh nghiệm của nhiều nước, bổ sung và biên soạn lại để hình thành đề cương đánh giá đất đai (A Framework for Land Evaluation) được công bố vào năm 1976, sau đó được bổ sung, hoàn chỉnh năm 1983. Tài liệu này được cả thế giới quan tâm thử nghiệm, vận dụng và chấp nhận là phương tiện tốt nhất để đánh giá tiềm năng đất đai.

Tiếp theo đề cương tổng quát 1976 là hàng loạt tài liệu hướng dẫn cụ thể khác về đánh giá đất đai cho từng đối tượng chuyên biệt cũng được FAO xuất bản như: Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ nước mưa (FAO, 1984); đánh giá đất đai cho lâm nghiệp (1984), (1994); đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp được tưới (FAO, 1985); Hướng dẫn đặt kế hoạch sử dụng đất (1988); đánh giá đất đai cho đồng cỏ quảng canh (1989); đánh giá đất đai cho mục tiêu phát triển (1990); đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho việc sử dụng đất (1990).

Hiện nay, công tác đánh giá đất đai được thực hiện trên nhiều quốc gia và trở thành một khâu trọng yếu của hoạt động đánh giá tài nguyên phục vụ quy hoạch sử dụng hợp lý lãnh thổ.

2.4.1.3. Các công trình nghiên cứu theo hướng lập địa

Điều kiện lập địa được dùng để đánh giá đất lâm nghiệp nhằm xác định cây trồng rừng phù hợp với tính chất đất và các đặc điểm tự nhiên khác.

Đơn vị lập địa cơ bản được xác định từ 4 yếu tố chính: Địa hình - địa thế, khí hậu, đất, giới hữu cơ. Hệ thống phân cấp gồm:

- Cấp I:

+ Dạng lập địa (Site Unit), tỷ lệ bản đồ 1/10.000;

+ Nhóm dạng lập địa (Site Group): Thiết kế kinh doanh ở các lâm trường.

- Cấp II: Bức khảm lập địa (Site Mosanic), tỷ lệ bản đồ 1/25.000 - 1/50.000; quy hoạch từ cấp lâm trường trở lên.

- Cấp III: Dạng đất đai (Landform Map) là các khu lập địa phục vụ mục đích quy hoạch vùng, toàn quốc.

Dạng lập địa - đơn vị cơ bản lập địa tương tự Land Mapping Unit (đơn vị bản đồ đất đai).

2.4.1.4. Hướng phân tích lưu vực kết hợp đánh giá cảnh quan sinh thái

Hướng phân tích lưu vực kết hợp đánh giá cảnh quan sinh thái được áp dụng trong nghiên cứu sử dụng hợp lý lãnh thổ lưu vực sông đã được các nước trên thế giới tiến hành từ khá sớm như Mỹ, Anh, Pháp, Australia, Nhật Bản...

Vấn đề quản lý tổng hợp lãnh thổ theo lưu vực sông với mục tiêu là sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên theo lưu vực có nhiệm vụ trọng tâm là quản lý nguồn tài nguyên nước và tài nguyên đất. Nhiệm vụ này được triển khai theo 2 nội dung:

- Quản lý nguồn tài nguyên nước bằng các công trình thủy lợi tác động vào dòng chảy.

- Quản lý sử dụng đất thông qua việc quy hoạch phân cấp đầu nguồn ((WSC - Watershed Classification).

2.4.2. Các công trình nghiên cứu cảnh quan ứng dụng ở Việt Nam

2.4.2.1. Các công trình nghiên cứu theo hướng cảnh quan

Việc nghiên cứu đánh giá các điều kiện tự nhiên theo hướng cảnh quan ứng dụng bắt đầu từ thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, như “Sơ đồ phân vùng địa lý tự nhiên miền Bắc Việt Nam” của Tổ phân vùng địa lý tự nhiên tổng hợp - Ủy ban Khoa học Nhà nước, “Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam” của tác giả Vũ Tự Lập...

Từ những năm 1980, các công trình đánh giá tổng hợp các điều kiện địa lý tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên theo hướng cảnh quan phát triển mạnh. Có thể nêu một số công trình của các tác giả: Nguyễn Thành Long và những người khác (1984), Nguyễn Văn Sơn (1987), Nguyễn Cao Huần (1985), Nguyễn Thế Thôn (1994), (2001), Nguyễn Trọng Tiến (1996), Nguyễn Văn Vinh (1996)... Điển hình gần đây là công trình “Đánh giá tổng hợp 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lâm Đồng cho mục đích nông-lâm nghiệp, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” của Phạm Hoàng Hải và CTV; “Nghiên cứu cảnh quan thượng nguồn sông Cầu phục vụ phân vùng môi trường” Nguyễn Ngọc Khánh (1997); “Đánh giá cảnh quan theo hướng tiếp cận kinh tế sinh thái” Nguyễn Cao Huần (2005); “Sinh thái cảnh quan” Nguyễn An Thịnh (2013)…

Trong các công trình này, trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc đánh giá tiềm năng tự nhiên, thông qua các bước đánh giá riêng từng hợp phần tự nhiên đến đánh giá tổng hợp dựa trên đặc điểm của các đơn vị lãnh thổ cảnh quan. Các chỉ tiêu đánh giá là các đặc điểm đặc thù của vùng có liên quan đến loại hình sử dụng được lựa chọn. Phương pháp đánh giá bằng thang điểm tổng hợp được áp dụng để phân cấp các vùng thuận lợi hoặc ít thuận lợi cho các loại hình sử dụng lãnh thổ.

Nhiều công trình của các tác giả Viện Địa lý chọn “diện cảnh quan sinh thái” với các bản đồ tỷ lệ 1/10.000 - 1/25.000; “loại cảnh quan sinh thái” với các bản đồ tỷ lệ 1/100.000 - 1/250.000. Theo hướng sinh thái cảnh quan, các công trình như “Nghiên cứu cải tạo, sử dụng hợp lý hệ sinh thái vùng gò đồi Bình Trị Thiên” (1990); “Đánh giá, phân hạng điều kiện sinh thái tự nhiên lãnh thổ trung du Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế cho nhóm cây công nghiệp dài ngày” (1995); “Xây dựng mô hình tự nhiên - kinh tế - xã hội theo hướng sinh thái - nhân văn - môi trường cho vùng gò đồi Quảng Bình” (1996); “Đánh giá cảnh quan cho phát triển nông-lâm nghiệp và phòng tránh thiên tai” Hà Văn Hành (2019) là những đại diện, trong đó các chỉ tiêu sinh thái (như nhiệt độ, độ ẩm, đất, độ dốc...) cho một số loài cây trồng được lựa chọn để đánh giá độ các mức độ thích hợp.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2023