thay đổi về chất trong vốn tri thức của con người.
Theo đó, phương thức dạy học cần phải được thay đổi nhằm giúp con người tiếp thu tri thức của nhân loại một cách tốt nhất.
Như vậy, dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, hiểu biết, kỹ năng, giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được, trên cơ sở đó có khả năng giải quyết các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học.
Theo lý thuyết về dạy học hiện đại, hoạt động dạy học bao gồm hoạt động của thầy và trò. Nhà tâm lý học A.Menxinkaia viết: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của một hoạt động” [dẫn theo 31].
Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác có tính đặc thù. Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Giáo viên xây dựng, thiết kế hoạt động dạy học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì công việc dạy học càng hiệu quả bấy nhiêu. Ý kiến của Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” [dẫn theo 24] đã chỉ ra sự tương tác trong hoạt động dạy học mang tính đặc thù. Bởi lẽ:
Thứ nhất, hoạt động dạy học nằm trong chuỗi hoạt động của con người nhưng là hoạt động nghề nghiệp, không phải là hoạt động của mọi người. Người hoạt động dạy học phải có tiêu chuẩn và năng lực nghề nghiệp mới tham gia được hoạt động này.
Thứ hai, hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. GV tác động vào HS, HS phát triển, GV căn cứ vào sự thay đổi ở HS để điều chỉnh hoạt động dạy.
Hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy và trò cùng hướng về một mục tiêu. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy và năng lực học của học sinh được thể hiện ở các mức độ đạt được của mục tiêu chương trình giáo dục đề ra. Do vậy, hoạt động dạy có kết quả khi nó tác động cùng hướng với hoạt động học. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm. Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ phía hoạt động của người thầy trong tương tác với hoạt động học của trò
là hướng dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt động học của HS. Trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, các tác giả đã định nghĩa hoạt động dạy học như sau: “Hoạt động dạy là hoạt động của người lớn tổ chức điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng” [dẫn theo 24].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh - 1
- Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh - 2
- Hoạt Động Dạy Học, Quản Lý Hoạt Động Dạy Học
- Phương Pháp, Hình Thức Tổ Chức Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Ở Trường Thcs
- Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Học Tập Môn Ngữ Văn Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Ở Trường Thcs
- Quản Lý Phương Pháp, Phương Tiện Và Các Hình Thức Tổ Chức Dạy Học
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Trong hoạt động dạy học, hoạt động của giáo viên có vai trò quan trọng. Nói rõ hơn về hoạt động của giáo viên trong hoạt động dạy học, 2 tác giả Hoàng Hòa Bình và Nguyễn Minh Thuyết trong công trình Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn từ tiểu học, khi đề cập phương pháp tổ chức hoạt động trong dạy học đã xác định rõ hoạt động của GV là “hệ thống các hành động” nhằm tổ chức hoạt động cho HS [dẫn theo 11].
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Hoạt động dạy học là quá trình gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng: hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học chính là quản lý quá trình dạy học. Quản lý quá trình dạy học là quá trình tổ chức, điều khiển quá trình dạy học để nó vận hành một cách có kế hoạch, có tổ chức và luôn có sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhằm đạt mục tiêu giáo dục đề ra.
Quản lý hoạt động dạy học tức là quá trình làm sao đưa hoạt động dạy và hoạt động học từ trạng thái này sang trạng thái khác để tiến dần đến mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu quản lý trường học là quản lý chất lượng sản phẩm giáo dục. Muốn có sản phẩm giáo dục đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội thì trước hết nhà trường phải tổ chức, điều khiển và kiểm soát tốt quá trình tổ chức hoạt động dạy và học, vì hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của nhà trường nhằm hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, sản phẩm giáo dục của nhà trường.
Quản lý hoạt động dạy học là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà trường của người Hiệu trưởng.
Nội dung tổng thể của quản lý HĐ DH bao gồm: Quản lý thực thi chế định GD&ĐT trong dạy học, Quản lý hoạt động của bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, Quản lý việc huy động và sử dụng cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, Quản lý mối quan hệ trong môi trường dạy học, Quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học.
Nội dung cụ thể trong quản lý HĐ DH bao gồm: Quản lý thực hiện mục tiêu dạy học, Quản lý thực hiện nội dung, chương trình DH, Quản lý đổi mới cách sử dụng phương pháp DH, Quản lý việc đề xuất và lựa chọn hình thức tổ chức DH, Quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, Quản lý môi trường DH, Quản lý về đánh giá kết quả DH, Quản lý công tác giáo vụ hành chính.
Dựa trên các khải niệm: quản lý, hoạt động dạy học đã nêu ở trên, chúng ta có thể hiểu: Quản lý HĐ DH là sự tác động có chủ đích, hợp quy luật của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến khách thể quản lý (GV, HS) bằng các biện pháp phát huy tác dụng của các phương tiện quản lý dạy học như các chế định, quy định giáo dục và đào tạo, bộ máy tổ chức và nhân lực, nguồn tài lực và vật lực, môi trường và thông tin dạy học nhằm đạt được mục đích của quá trình quản lý.
1.2.3. Quản lý hoạt động dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Từ các khái niệm: Quản lý hoạt động dạy học; Chương trình giáo dục phổ thông mới đã nêu ở trên, có thể hiểu: Quản lý hoạt động dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông mới là sự tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến hoạt động dạy học trong nhà trường nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể của Chương trình giáo dục phổ thông mới để đạt được mục tiêu dạy học đã đề ra.
1.3. Dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
1.3.1.Đặc điểm môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông mới
Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông có tên là Ngữ văn.
Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục
học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,...
Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời.
Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học,... liên quan tới nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí, Nghệ thuật, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp,… Môn Ngữ văn cũng liên quan mật thiết với cuộc sống; giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Xét về bản chất, môn Văn là môn học nghệ thuật, là môn học về cái đẹp, nhằm bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho HS. Nhưng cái đẹp trong văn học không dễ gì tìm thấy ngay, và càng khó hơn khi phải dẫn dắt HS tìm đến, khám phá để cảm nhận được cái đẹp và chiếm lĩnh nó. Người GV ngữ văn vừa phải có năng lực phát hiện ấy, vừa phải biết truyền cái năng lực ấy đến cho HS. Đây chính là việc hình thành năng lực thẩm mỹ, năng lực khám phá cái đẹp trong văn học. Như vậy, khi dạy văn học cùng một lúc, sẽ đạt được kết quả kép: vừa đem đến cho HS cái đẹp trong tác phẩm văn chương, lại bồi dưỡng được năng lực thẩm mỹ cho các em - vốn là một năng lực cần thiết cho con người hiện đại ngày nay. Và từ việc cảm nhận cái đẹp mà các em sẽ tự hình thành những tình cảm tốt đẹp khác một cách tự nhiên như yêu con người, yêu cuộc sống, yêu nước, yêu các giá trị mà con người đã tạo ra. Cái đẹp của văn chương đã trở thành cái đẹp của con người và cuộc sống.
Môn Văn là môn công cụ, là môn học mang ý nghĩa thực hành, mà ở đây chính là cách đọc hiểu văn bản, cách tạo lập văn bản, cách diễn đạt sao cho đúng, cho hay. Nó phải trở thành mẫu mực, phải nâng lên mức kỹ năng thuần thục để có thể hỗ trợ cho các môn khác.
Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kĩ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Như vậy, tầm quan trọng của việc dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới thể hiện như sau:
Trong chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định rõ mục tiêu chung của môn Ngữ văn, theo đó có thể hình dung về tầm quan trọng của dạy học môn ngữ văn trong nhà trường THCS như sau:
Thứ nhất, môn ngữ văn nhằm hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế.
Thứ hai, góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống.
Thứ ba, hình thành cho học sinh các năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn: như năng lực tư duy hình ảnh, năng lực sử dụng ngôn ngữ, hoạt động giao tiếp…
Thứ tư, hình thành cho học sinh phương pháp học tập khoa học, biết cách tự học, tự nghiên cứu, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu đến cách thức tạo lập văn bản và nghe-nói; thực hành, luyện tập và cận dụng nhiều kiến thức khác nhau nhằm giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Học sinh được bộc lộ, thể hiện phẩm chất, năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mỹ và những suy nghĩ của chính các em, không vay mượn, sao chép.
1.3.2. Hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
1.3.2.1. Một số yêu cầu cơ bản đối với hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
Chương trình môn Ngữ văn vận dụng các phương pháp giáo dục theo định hướng chung là dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hoá các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh.
- Dạy học tích hợp và phân hoá
Dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên Ngữ văn trước hết phải thấy được mối liên hệ nội môn (đọc, viết, nói và nghe), theo đó nội dung dạy đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà học sinh tích luỹ được trong quá trình tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nghe và nói tốt hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt học sinh học được trong quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết. Tương tự, những điều học được khi đọc và viết sẽ được học sinh dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội môn, trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn phải biết tận dụng các cơ hội để lồng ghép một cách nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Nghệ thuật) và những nội dung giáo dục ưu tiên xuyên suốt toàn chương trình giáo dục phổ thông (chủ quyền quốc gia, hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, quyền con người, quyền trẻ em, bình đẳng giới, giáo dục tài chính,...).
Dạy học phân hoá có thể thực hiện bằng nhiều cách: nêu các câu hỏi, bài tập theo nhiều mức độ khác nhau; yêu cầu tất cả mọi học sinh đều làm việc và lựa chọn vấn đề phù hợp với mình; khuyến khích sự mạnh dạn, tự tin trong trao đổi, tranh luận và thể hiện; động viên và khen ngợi kịp thời các học sinh có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo trong đọc, viết, nói và nghe. Ở trung học phổ thông, dạy các chuyên đề học tập cũng nhằm đạt được mục tiêu phân hoá và góp phần định hướng nghề nghiệp.
- Đa dạng hoá các phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện dạy học
Theo định hướng này, giáo viên cần tránh máy móc rập khuôn, không tuyệt đối hoá một phương pháp trong dạy đọc, viết hay nói và nghe mà biết vận dụng các phương pháp phù hợp với đối tượng, bối cảnh, nội dung và mục đích của giờ học.
Cần mở rộng không gian dạy và học, không chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học mà còn có thể ở thư viện, sân trường, nhà bảo tàng, khu triển lãm,... Có thể cho học sinh đi tham quan, dã ngoại, yêu cầu các em ghi chép, chụp hình, quay phim,... những gì quan sát, trải nghiệm và viết báo cáo, thuyết minh,... Cần chú ý sử dụng các trò chơi ngôn ngữ, nhất là đối với học sinh tiểu học; hướng dẫn học sinh cách dùng sơ đồ để thể hiện các ý tưởng, nhất là khi tóm tắt nội dung văn bản, miêu tả hệ 96 thống nhân vật, trình bày các thao tác thực hiện một công việc,...; khuyến khích học sinh tự tìm đọc, biết cách thu thập, chọn lọc tài liệu trong thư viện và trên Internet để thực hiện các nghiên cứu cá nhân hay theo nhóm, sau đó trình bày, thảo luận kết quả nghiên cứu trước lớp; rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin để hỗ trợ cho việc trình bày. Tổ chức các hoạt động dạy học sao cho khi kết thúc mỗi cấp lớp, học sinh đạt được các yêu cầu cần đạt mà chương trình đã đề ra.
- Phát huy tính tích cực của người học
Để đáp ứng yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực, giáo viên cần chú ý hình thành cho học sinh cách học, tự học, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu đến cách thức tạo lập văn bản và nghe-nói; thực hành, luyện tập và vận dụng nhiều kiểu loại văn bản khác nhau để sau khi rời nhà trường các em có thể tiếp tục học suốt đời và có khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giáo viên là tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh; hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ học sinh để các em từng bước hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực mà chương trình giáo dục mong đợi.
Giáo viên cần khơi gợi, vận dụng kinh nghiệm và vốn hiểu biết đã có của học sinh về vấn đề đang học, từ đó tổ chức cho các em tìm hiểu, khám phá để tự mình bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những hiểu biết ấy. Cần khuyến khích học sinh trao đổi và tranh luận, đặt câu hỏi cho mình và cho người khác khi đọc, viết, nói và nghe. Bên cạnh việc phát huy tính tích cực của người học, trong dạy học giáo viên cần chú ý tính chuẩn mực của người thầy cả tri thức và kĩ năng sư phạm.
1.3.2.2. Nội dung dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
Chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định nội dung khái quát và nội dung cụ thể môn Ngữ văn cấp THCS như sau:
* Nội dung chung:
Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo hướng mở; thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể cần dạy mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học, tiếng Việt và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa đặc biệt của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
Những văn bản khác được chương trình nêu lên trong phần phụ lục chỉ như một gợi ý về ngữ liệu, minh hoạ về thể loại, kiểu văn bản, đề tài và sự phù hợp với nhận thức, tâm lí lứa tuổi; nhằm đáp ứng các yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói, nghe ở mỗi lớp và nhóm lớp. Căn cứ vào các yêu cầu bắt buộc này, các tác giả sách giáo khoa, cơ sở giáo dục và giáo viên môn Ngữ văn hoàn toàn chủ động, sáng tạo trong việc triển khai các nội dung dạy học cụ thể theo yêu cầu phát triển chương trình. Giáo viên được lựa chọn sách giáo khoa, sử dụng một hay kết hợp nhiều sách, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để dạy học, miễn là bám sát mục tiêu và đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình. Việc đánh giá kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học trong một cuốn sách giáo khoa Ngữ văn cụ thể mà lấy yêu cầu cần đạt nêu trong văn bản chương trình môn học làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá. Chương trình Ngữ văn vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của các chương trình Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành. Trước hết, chương trình kế thừa những văn bản hay, tiêu biểu cho các kiểu loại văn bản; kế thừa việc dạy học các kiểu loại văn bản đa dạng, chú trọng yêu cầu đọc hiểu và tạo lập văn bản; kế thừa và phát triển định hướng tích hợp và phân hoá. Sự phát triển tư tưởng dạy học tích hợp trong chương trình Ngữ văn mới thể hiện ở sự thống nhất của trục tích hợp; ở yêu cầu tích hợp triệt để và nhất quán đến mức cao nhất có thể giữa ngôn ngữ và văn học, giữa các kiểu loại văn bản và giữa các hoạt động giao tiếp đọc, viết, nói và nghe trong từng bài học hoặc từng chương, phần, cụm bài. Ngoài ra, chương trình Ngữ văn còn chú ý thực hiện quan điểm tích hợp các nội dung liên môn và xuyên môn một cách hợp lí. Yêu cầu phân hoá theo năng lực, sở trường của mỗi cá nhân người học tiếp tục được coi trọng trong từng bài học.