Phương Pháp, Hình Thức Tổ Chức Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Ở Trường Thcs

* Nội dung cụ thể:

Nội dung môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS được tập hợp thành ba bộ phận chủ yếu là: Tiếng Việt, Văn học, Ngữ liệu. Các nội dung này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một chỉnh thể thống nhất trong cấu trúc nội dung chương trình, đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, sự phù hợp với trình độ nhận thức của HS THCS và được quy định bằng các văn bản, sách giáo khoa, chuẩn kiến thức và kỹ năng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

- Phân môn Tiếng Việt bao gồm các nội dung về: Ngữ âm và chữ viết; Từ vựng; Ngữ pháp; Hoạt động giao tiếp; Sự phát triển của ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ. Phân môn Văn bao gồm các nội dung: Những vấn đề chung về văn học; Các thể loại văn học; Các yếu tố của tác phẩm văn học; Một số hiểu biết sơ giản về lịch sử văn học Việt Nam.

- Nội dung Ngữ liệu bao gồm: Truyện và văn xuôi; Thơ và văn vần; Kịch; Ký; Văn bản nghị luận; Văn bản thông tin.

Nội dung dạy học được xác định dựa trên các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp, gồm: hoạt động đọc, viết, nói và nghe; kiến thức (tiếng Việt, văn học); ngữ liệu.

Yêu cầu cần đạt về kĩ năng đọc:

- Kĩ thuật đọc: gồm các yêu cầu về tư thế đọc, kĩ năng đọc thành tiếng, kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, kĩ năng ghi chép trong khi đọc,...

- Đọc hiểu: đối tượng đọc gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin. Đọc hiểu mỗi kiểu văn bản và thể loại nói chung có các yêu cầu cần đạt sau:

+ Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông điệp,...;

+ Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các thành tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện, truyện kể, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng chứng,...), ngôn ngữ biểu đạt,…;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

+ Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn bản đa phương thức,…;

+ Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc.

Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh - 5

Yêu cầu cần đạt về kĩ năng viết:

- Kĩ thuật viết: gồm các yêu cầu về tư thế viết, kĩ năng viết chữ và viết chính tả, kĩ năng trình bày bài viết,...

- Viết câu, đoạn, văn bản: gồm các yêu cầu về quy trình tạo lập văn bản và yêu cầu thực hành viết theo đặc điểm của các kiểu văn bản.

Yêu cầu cần đạt về các kĩ năng nói và nghe:

- Kĩ năng nói: gồm các yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...

- Kĩ năng nghe: gồm các yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,…

- Kĩ năng nói và nghe có tính tương tác: gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,…

1.3.2.3. Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS

a. Phương pháp dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS

Trong việc dạy học môn ngữ văn theo chương trình GDPT mới thì các trường vừa áp dụng phương pháp truyền thống vừa áp dụng phương pháp hiện đại nhưng với yêu cầu của môn Ngữ văn theo chương trình GDPT mới (Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (2018), Môn Ngữ văn, Bộ Giáo dục và Đào tạo) cần tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh; hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ học sinh để các em từng bước hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực mà chương trình giáo dục mong đợi, đo đó GV dạy môn ngữ văn cần linh hoạt áp dụng các phương pháp đặc thù môn học dựa trên mục tiêu cụ thể của bài học; mục tiêu phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của HS ở cấp học, cụ thể:

*Phương pháp thuyết trình:

Thuyết trình là phương pháp dạy học Ngữ văn bằng lời nói sinh động của giáo viên để trình bày một tài liệu mới hoặc tổng kết những tri thức của bộ môn Ngữ văn mà học sinh đã thu lượm được một cách có hệ thống. Phương pháp thuyết trình trong dạy học môn Ngữ văn có thể thực hiện dưới hình thức giảng giải, giảng thuật và diễn giảng phổ thông.

Khi dùng phương pháp thuyết trình để trình bày một tác phẩm văn học hoặc một vấn đề nào đó cũng phải trải qua bốn bước: Đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận rút ra từ vấn đề đó.

* Phương pháp nêu vấn đề:

Dạy học nêu vấn đề hay dạy học giải quyết vấn đề trong dạy học Ngữ văn là phương pháp GV tạo ra những tình huống có vấn đề liên quan đến các tác phẩm văn học, các nhân vật trong các tác phẩm, các kiến thức của bộ môn từ đó điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác.

Quy trình dạy học nêu vấn đề áp dụng đối với môn Ngữ văn thông thường cũng được thực hiện thông qua 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: xác định và tìm hiểu vấn đề; giai đoạn 2: tìm hiểu các kiến thức có liên quan; giai đoạn 3: giải quyết vấn đề; giai đoạn 4: trình bày kết quả.

* Phương pháp vấn đáp:

Vấn đáp trong dạy học Ngữ văn là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho các em sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức văn học mới bằng sự tái hiện những tài liệu văn học đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống.

Khi dạy học môn Ngữ văn, cần phải đặt câu hỏi cho toàn lớp rồi mới chỉ định học sinh trả lời. Khi một học sinh trả lời xong, cần yêu cầu những học sinh khác nhận xét, bổ sung, sửa chữa câu trả lời nhằm thu hút sự chú ý lắng nghe câu trả lời của bạn với tinh thần phản biện mang tính xây dựng, qua đó mà kích thích hoạt động chung của cả lớp.

*Phương pháp thảo luận nhóm:

Là phương pháp dạy học khi giáo viên tổ chức cuộc đối thoại giữa học sinh với học sinh hoặc giữa học sinh với giáo viên nhằm huy động trí tuệ của học sinh để giải quyết một vấn đề nào đó để đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoặc những quan niệm mới.

Giáo viên là người tổng kết và trình bày ý kiến thống nhất của cả lớp, song cũng có thể tổng kết ở dạng kết thúc mở, không nêu ra kết luận đúng hay sai để tôn trọng ý kiến của học sinh, kích thích học sinh tự do phát biểu ra suy nghĩ của mình.

* Phương pháp trò chơi:

Dạy học Ngữ văn dựa trên trò chơi là một phương pháp gây nhiều hứng thú cho học sinh nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao của giáo viên.

Để có thể vận dụng tối ưu phương pháp này trong dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới, cần phân biệt các mức độ sử dụng trò chơi trong dạy học và đáp ứng các yêu cầu của việc tổ chức thực hiện phương pháp, bao gồm: sử dụng trò chơi trước khi học; sử dụng trò chơi như một hình thức học tập; sử dụng trò chơi như một nội dung học tập.

* Phương pháp đóng vai:

Đây là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tổ chức cho HS thực hành (làm thử) một số cách ứng xử trong tình huống giả định hoặc vào vai những nhân vật trong các tác phẩm văn học.

Phương pháp này giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà HS quan sát được. Từ sự trải nghiệm, quan sát và đánh giá tình huống, HS được rèn luyện về những kỹ năng giải quyết các vấn đề đã đặt ra.

* Phương pháp dạy học tình huống:

Dạy học tình huống là một phương pháp dạy học được tổ chức theo những tình huống có thực của cuộc sống hoặc các tình huống theo các tác phẩm văn học, trong đó học sinh được kiến tạo tri thức qua việc giải quyết các vấn đề có tính xã hội của việc học tập.

Dạy học tình huống đối với bộ môn Ngữ văn là một hình thức dạy học gây hứng thú và có tính thực tiễn cao. Thông qua các tình huống, học sinh có thể học được cách đưa ra những câu hỏi chuyên biệt, cách tìm ra giải pháp và chứng minh được câu trả lời của các em bằng học thuyết hay nghiên cứu. Song cũng không nên quá lạm dụng vì có thể gây ra tác dụng ngược, làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán.

* Phương pháp trải nghiệm trong dạy học Ngữ văn:

Giáo dục trải nghiệm trong đó giáo viên khi dạy học Ngữ văn khuyến khích học sinh tham gia trải nghiệm thực tế sau mỗi bài học, mỗi tác phẩm học sinh phản ánh, tổng kết lại các kiến thức để tăng cường hiểu biết, phát triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân.

Khi áp dụng phương pháp trải nghiệm thông thường có 5 bước: Bước 1: Trải nghiệm; Bước 2: Chia sẻ; Bước 3: Phân tích; Bước 4: Tổng quát; Bước 5: Áp dụng.

* Phương pháp luyện tập:

Luyện tập là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong dạy học Ngữ văn, trong đó dưới sự chỉ dẫn của GV, HS nghiên cứu tìm hiểu các tác phẩm văn học khác nhau, thực hành viết nhằm hình thành và phát triển kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa từ các bài đã học.

Luyện tập phải hướng tới mục đích, yêu cầu nhất định; Phải được tiến hành theo trình tự chặt chẽ; cần phải nắm vững lý thuyết rồi mới luyện tập; đảm bảo vừa sức với HS.

* Phương pháp ôn tập:

Ôn tập là phương pháp dạy học Ngữ văn giúp học sinh mở rộng, đào sâu, khái quát hóa, hệ thống hóa tri thức văn học đã học, nắm vững những kĩ năng, kĩ xảo đã được hình thành, phát triển trí nhớ, tư duy trừu tượng logic của học sinh. Đồng thời qua đó có thể điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm trong hệ thống tri thức của các em.

Ôn tập phải có kế hoạch, có hệ thống và kịp thời; bằng nhiều hình thức khác nhau có tính tích cực: bằng cách tái hiện,cấu trúc lại tri thức.

* Phương pháp công não:

Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng sáng tạo tập trung trên vấn đề tìm hiểu các tác phẩm văn học trong công não thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau, sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh giá.

Khi thực hiện phương pháp công não trong dạy học bộ môn Ngữ văn, giáo viên cần chia học sinh thành các nhóm, các nhóm tự chọn nhóm trưởng và thư ký. Giao vấn đề cho nhóm, nhóm trưởng điều hành hoạt động thảo luận chung của cả nhóm trong một thời gian quy định, các ý kiến đều được thư ký ghi nhận, khuyến khích thành viên đưa càng nhiều ý kiến càng tốt. Cả nhóm cùng lựa chọn giải pháp tối ưu, thu gọn các ý tưởng trùng lặp, xóa những ý không phù hợp, sau cùng thư ký báo cáo kết quả. Trong quá trình thu thập ý kiến, không được phê bình hay nhận xét - cần xác định rõ: Không có câu trả lời nào là sai.

* Phương pháp dạy học cá biệt hóa:

Dạy học cá biệt hóa là phương pháp giảng dạy yêu cầu người giáo viên phải quan tâm tới từng đối tượng HS, dạy cho từng cá nhân mà không dạy theo số đông. GV phải nắm được năng lực tiếp nhận và cả đặc điểm tâm sinh lý của từng em.

Dạy học Ngữ văn theo hướng cá biệt hóa không có nghĩa là chia nhóm hay không chia nhóm, mà quan trọng là giúp học sinh phát triển được các đặc điểm cá nhân của mình, việc chia nhóm chỉ là một trong nhiều biện pháp để thực hiện cách dạy cá biệt hóa. Dạy học cá biệt hóa trong dạy học Ngữ văn yêu cầu học sinh phải chủ động tích cực trong học tập, không ngồi nghe thụ động theo cách từ chương, sáo rỗng. Nói cách khác là phải thật sự năng động, sáng tạo hơn trong tiếp cận các tác phẩm văn học. Bài học trên lớp luôn gắn với thực tiễn, thực hành, ôn tập, tăng tính thực hành giảm bớt phần lý thuyết không cần thiết cũng là một yêu cầu khi dạy và học.

b. Hình thức tổ chức dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS

Việc tổ chức dạy học môn ngữ văn theo chương trình GDPT mới có thể diễn ra theo các hình thức sau đây:

* Dạy học cả lớp (lớp - bài):

Hình thức lớp - bài là một kiểu tổ chức dạy học mà trong suốt thời gian học tập được quy định một cách chính xác ở một địa điểm riêng biệt, giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận thức có tính chất tập thể ổn định, với thành phần học sinh không đổi, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của từng học sinh, sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững tài liệu học tập một cách trực tiếp từ giáo viên cũng như làm phát triển năng lực nhận thức và giáo dục học sinh.

Việc sử dụng hình thức dạy học cả lớp (lớp-bài) trong hoạt động dạy học môn ngữ văn theo chương trình GDPT mới, đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Hoạt động dạy học được tiến hành chung cho cả lớp. Số lượng học sinh trong lớp không thay đổi, phù hợp với khả năng bao quát, quản lý của giáo viên.

+ Buổi học chia thành tiết, dạy theo thời khoá biểu, có kế hoạch và nội dung cụ thể. Thời gian của tiết học phụ thuộc vào từng môn học.

+ Do giáo viên trực tiếp tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của cả lớp, đồng thời có chú ý đến từng học sinh.

* Dạy học theo nhóm:

Hình thức dạy học theo nhóm là dạng kết hợp tính tập thể và tính cá nhân, trong đó học sinh trong nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo viên trao đổi ý tưởng, nguồn kiến thức với nhau, hợp tác với nhau trong lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.

Việc sử dụng hình thức dạy học theo nhóm trong hoạt động dạy học môn ngữ văn theo chương trình GDPT mới, đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Học sinh tác động trực tiếp lẫn nhau và phối hợp cùng nhau hoạt động, giảm tác động trực tiếp từ phía giáo viên đến cá nhân học sinh mà sự tác động này thông qua nhóm. Điểm này khắc phục được hạn chế ở hình thức học tập bài - lớp trong việc phát huy tính tích cực của học sinh.

+ Sau khi trao đổi, thống nhất ý kiến giữa các thành viên trong nhóm, đại diện của nhóm báo cáo trước toàn lớp kết quả của nhóm. Nội dung báo cáo đó đối với nhóm khác là thông tin mới.

+ Việc học tập cá nhân ở nhóm có những nét mới. Đó không còn là sự lĩnh hội tài liệu học tập xuất phát từ hứng thú cá nhân, hoặc do sợ bị kiểm tra, mà lĩnh hội có tính tới công tác phối hợp sau này. Vì vậy mà phương hướng học tập cá nhân thay đổi, nó có phương hướng xã hội nhiều hơn.

* Dạy học trong môi trường giả định (E-Learning):

Hình thức giáo dục điện tử (E-education) và đào tạo từ xa (Distance learning) gọi chung là E-Learning, dựa trên công cụ máy tính và môi trường Web ra đời như là một hình thức học tập mới đã mang đến cho người học một môi trường học tập hiệu quả với tinh thần tự giác và tích cực.

Hiểu theo nghĩa rộng, E-Learning (dạy học trong môi trường giả định) là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông, đặc biệt là công nghệ thông tin.

Theo quan điểm hiện đại, E-Learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Internet, Intranet,… trong đó nội dung học có thể thu được từ các website, đĩa CD, băng video, audio… thông qua một máy tính hay tivi; người dạy và người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như: thư điện tử (e-mail), thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo, video…

Trong dạy học môn ngữ văn theo chương trình GDPT mới người GV cần lưu ý:

- Sự thành thạo về sư phạm:

+ Người giáo viên phải luôn nghĩ rằng môi trường dạy học trực tuyến là một dạng khác so với môi trường dạy học truyền thống trong lớp học trong sự tương tác trực tiếp với học sinh.

+ Khi làm việc với lớp học trực tuyến, giáo viên phải sẵn sàng đầu tư công sức và thời gian để trả lời tất cả các câu hỏi của học sinh.

+ Giáo viên phải có sự sáng tạo trong việc lập kế hoạch giảng dạy (Learning Plan) và sử dụng công nghệ dạy học có hiệu quả hơn.

+ Kỹ năng sư phạm của phương pháp dạy học truyền thống được áp dụng trong E-Learning thể hiện ở các học liệu điện tử (courseware). Người học có thể được giáo viên cho học trực tiếp trên màn hình bằng thao tác viết bảng (Text) hay học thông qua nghe, nhìn,…

- Kỹ năng quản lý:

+ Xây dựng nguyên tắc và yêu cầu học sinh thực hiện theo các nguyên tắc đó.

+ Thực hiện diễn đàn thảo luận với sự hướng dẫn điều hành của giáo viên.

+ Liên hệ thường xuyên với chuyên gia để được hỗ trợ về CNTT và truyền thông.

+ Sau mỗi nội dung, giáo viên phải quản lý được kiến thức của học sinh thông qua các bài trắc nghiệm, bài tập lớn,….

- Kỹ năng về kỹ thuật:

+ Giáo viên phải tự trang bị cho mình về kiến thức cơ bản về máy tính, biết sử dụng các thiết bị điện tử hỗ trợ dạy học trực tuyến (Video), biết kết hợp các kỹ thuật đa phương tiện giúp người học tiếp nhận được thông tin - nghe gì? xem gì?

+ Thường xuyên sử dụng email vì email là phương tiện gần nhất để liên lạc với học sinh.

+ Giáo viên có thể trao đổi trực tiếp với học sinh thông qua hình thức Chat.

+ Có thể tổ chức kiểm tra và thi kết thúc môn học bằng hình thức kết hợp qua mạng và trực tiếp trên lớp truyền thống.

*Dạy học ở phòng học bộ môn:

Phòng học bộ môn là nơi có thiết bị dạy học bố trí sẵn theo yêu cầu của môn học; có tủ đựng thiết bị dạy học để ngay trong lớp học; có khu vực chuẩn bị các bài thí nghiệm, thực hành của giáo viên và học sinh; hệ thống chỗ ngồi cơ động cho việc học theo nhóm hoặc các thí nghiệm riêng lẻ.

Dạy học bằng phòng học bộ môn là xu hướng chung mà các nước phát triển trên thế giới đang thực hiện. Với phòng học truyền thống chỉ có bảng đen, phấn trắng, bàn, ghế; phòng học và học sinh không hề di chuyển theo mỗi bộ môn khác nhau, chỉ

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 24/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí