có giáo viên bộ môn di chuyển theo thời khóa biểu; giáo viên tự mang thiết bị dạy học đến lớp nếu nội dung bài giảng cần thiết bị. Phương pháp dạy học này chỉ phù hợp với kiểu dạy chay, học chay, thầy đọc, trò chép, rất thụ động... Trong khi đó, phòng học bộ môn là phòng học được trang bị những tài liệu trực quan, những thiết bị học tập, bàn ghế và các dụng cụ khác phục vụ học tập mà ở đó chúng được sử dụng một cách tích cực trong bài học, trong giờ ngoại khóa, giáo trình tự chọn.
*Dạy học tích hợp:
Dạy tích hợp là hình thức dạy học nhằm hình thành ở người học những năng lực giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn cuộc sống trên cơ sở huy động kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tích hợp ở đây được hiểu là sự gắn kết phối hợp các lĩnh vực trí thức gần nhau của các phân môn văn, tiếng Việt, làm văn nhằm hình thành và rèn luyện tốt các kỹ năng: đọc, nói, nghe, viết cho học sinh. Quan điểm tích hợp trong sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành đã được nâng lên một bước gắn liền với thực tiễn phát triển chương trình nhà trường, thực tiễn xây dựng chủ đề dạy học trong các môn học và các chủ đề tích hợp liên môn. Những đổi mới không chỉ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn theo chương trình hiện hành mà còn là bước chuẩn bị tích cực hình thành những cơ sở thực tiễn bổ ích cho việc tiếp cận chương trình giáo dục sau 2018.
Yêu cầu đối với hình thức dạy học tích hợp:
Về cấu trúc bài học tích hợp môn ngữ văn, theo nguyên tắc, một bài học tích hợp môn ngữ văn đúng nghĩa cần phải được hình dung theo dạng thức: văn bản đọc hiểu vừa là đối tượng của phân môn văn, vừa là mẫu của phân môn làm văn, kiến thức tiếng Việt; vừa giúp cho việc đọc - hiểu văn bản, vừa giúp cho việc tạo lập văn bản. Còn tạo lập văn bản sẽ là kết quả vận dụng tổng hợp các kiến thức văn học, tiếng Việt và các kỹ năng kinh nghiệm sống khác của học sinh. Việc bám sát định hướng năng lực phát triển học sinh, mỗi bài học không chỉ cung cấp kiến thức tổng hợp mà quan trọng hơn phải xây dựng được môi trường trải nghiệm sáng tạo thông qua các hoạt động dạy học thích hợp, khuyến khích và tạo điều kiện để học sinh gắn bó với cuộc sống hiện thực, vận dụng được kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống, góp phần hoàn thành chuẩn năng lực đầu ra của mỗi cấp/lớp.
1.3.2.4. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
Theo chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn như sau:
- Mục tiêu đánh giá
Đánh giá kết quả giáo dục trong môn Ngữ văn nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và những tiến bộ của học sinh trong suốt quá trình học tập môn học, để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Dạy Học, Quản Lý Hoạt Động Dạy Học
- Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
- Phương Pháp, Hình Thức Tổ Chức Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Ở Trường Thcs
- Quản Lý Phương Pháp, Phương Tiện Và Các Hình Thức Tổ Chức Dạy Học
- Vài Nét Về Tình Hình Kinh Tế - Xã Hội, Giáo Dục Đào Tạo Ở Địa Phương
- Tự Đánh Giá Của Hs Về Mức Độ Hứng Thú Đối Với Nội Dung Học Tập Môn Ngữ Văn Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Căn cứ đánh giá
Căn cứ đánh giá kết quả giáo dục trong môn Ngữ văn là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực đối với học sinh mỗi lớp học, cấp học đã quy định trong chương trình.
- Nội dung đánh giá
Trong môn Ngữ văn, giáo viên đánh giá phẩm chất, năng lực chung, năng lực đặc thù và sự tiến bộ của học sinh thông qua các hoạt động đọc, viết, nói, nghe.
+ Đánh giá hoạt động đọc: Tập trung vào yêu cầu học sinh hiểu nội dung, chủ đề của văn bản, quan điểm và ý định của người viết; xác định các đặc điểm thuộc về phương thức thể hiện, nhất là về mặt kiểu văn bản, thể loại và ngôn ngữ sử dụng; trả lời các câu hỏi theo những cấp độ tư duy khác nhau; lập luận, giải thích cho cách hiểu của mình; nhận xét, đánh giá về giá trị và sự tác động của văn bản đối với bản thân; thể hiện cảm xúc đối với những vấn đề được đặt ra trong văn bản; liên hệ, so sánh giữa các văn bản và giữa văn bản với đời sống.
+ Đánh giá hoạt động viết: Tập trung vào yêu cầu học sinh tạo lập các kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng. Việc đánh giá kĩ năng viết cần dựa vào các tiêu chí chủ yếu như nội dung, kết cấu bài viết, khả năng biểu đạt và lập luận, hình thức ngôn ngữ và trình bày,...
+ Đánh giá hoạt động nói và nghe: Tập trung vào yêu cầu học sinh nói đúng chủ đề và mục tiêu; sự tự tin, năng động của người nói; biết chú ý đến người nghe; biết tranh luận và thuyết phục; có kĩ thuật nói thích hợp; biết sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và phương tiện công nghệ hỗ trợ. Đối với kĩ năng nghe, yêu cầu học sinh nắm bắt nội dung do người khác nói; nắm bắt và đánh giá được quan
điểm, ý định của người nói; biết đặt câu hỏi, nêu vấn đề, trao đổi để kiểm tra những thông tin chưa rõ; có thái độ nghe tích cực và tôn trọng người nói; biết lắng nghe và tôn trọng những ý kiến khác biệt.
+ Đánh giá phẩm chất chủ yếu và năng lực chung trong môn Ngữ văn tập trung vào các hành vi, việc làm, cách ứng xử, những biểu hiện về thái độ, tình cảm của học sinh khi đọc, viết, nói và nghe; thực hiện chủ yếu bằng định tính, thông qua quan sát, ghi chép, nhận xét,...
- Cách thức đánh giá
Đánh giá trong môn Ngữ văn thực hiện bằng hai cách: đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì.
Đánh giá thường xuyên được thực hiện liên tục trong suốt quá trình dạy học, do giáo viên môn học tổ chức; hình thức đánh giá gồm: giáo viên đánh giá học sinh, học sinh đánh giá lẫn nhau, học sinh tự đánh giá. Để đánh giá thường xuyên, giáo viên có thể dựa trên quan sát và ghi chép hằng ngày về học sinh, việc học sinh trả lời câu hỏi hoặc thuyết trình làm bài kiểm tra, viết phân tích và phản hồi văn học, viết thu hoạch, làm dự án sưu tầm tư liệu, làm bài tập nghiên cứu,...
Đánh giá định kì được thực hiện ở thời điểm gần cuối hoặc cuối một giai đoạn học tập (cuối học kì, cuối cấp học) do cơ sở giáo dục tổ chức thực hiện để phục vụ công tác quản lí hoạt động dạy học, bảo đảm chất lượng giáo dục và phục vụ công tác phát triển chương trình, tài liệu học tập. Đánh giá định kì thường thông qua các đề kiểm tra hoặc đề thi viết. Đề thi, kiểm tra có thể yêu cầu hình thức viết tự luận (một hoặc nhiều câu); có thể kết hợp hình thức trắc nghiệm khách quan (câu hỏi trắc nghiệm khách quan) và hình thức tự luận (câu hỏi mở) để đánh giá đọc hiểu và yêu cầu viết bài văn về một chủ đề nào đó theo từng kiểu văn bản đã học trong chương trình. Có thể sử dụng hình thức kiểm tra vấn đáp (để đánh giá nói và nghe) nếu thấy cần thiết và có điều kiện. Trong việc đánh giá kết quả học tập cuối năm học, cuối cấp học, cần đổi mới cách thức đánh giá (cấu trúc đề, cách nêu câu hỏi, phân giải độ khó,...); sử dụng và khai thác ngữ liệu đảm bảo yêu cầu đánh giá được năng lực của học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép tài liệu có sẵn; tránh dùng lại các văn bản ngữ liệu đã học để đánh giá được chính xác khả năng đọc hiểu và phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học.
Dù đánh giá theo hình thức nào cũng đều phải bảo đảm nguyên tắc học sinh được bộc lộ, thể hiện phẩm chất, năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học, tư duy hình
tượng và tư duy logic, những suy nghĩ và tình cảm của chính học sinh, không vay mượn, sao chép; khuyến khích các bài viết có cá tính và sáng tạo. Học sinh cần được hướng dẫn tìm hiểu để có thể nắm vững mục tiêu, phương pháp và hệ thống các tiêu chí dùng để đánh giá các phẩm chất, năng lực.
1.4. Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
1.4.1. Vị trí, vai trò của Hiệu trưởng trong quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở trường THCS
Theo điều lệ trường THCS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định Hiệu trưởng là người đứng đầu nhà trường THCS, có nhiệm kỳ bổ nhiệm 5 năm, thẩm quyền bổ nhiệm Hiệu trưởng trường THCS là Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo. Hiệu trưởng phải đạt chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông theo Thông tư số 14/2018/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong nhà trường THCS, hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước nhân dân và cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động giáo dục của nhà trường; là người thay mặt nhà nước điều hành toàn bộ bộ máy và thực hiện đồng bộ tất cả các nội dung định hướng phát triển GD&ĐT nhà trường trong sự vận hành chung của hệ thống giáo dục quốc dân. Năng lực của người hiệu trưởng có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả quá trình quản lý, với sự phát triển của nhà trường.
Người hiệu trưởng có vai trò quan trọng trong quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới cho học sinh, là người trực tiếp lập kế hoạch quản lý, tổ chức, chỉ đạo hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới. Hiệu trưởng chủ động tổ chức phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để thực hiện hoạt động dạy học môn Ngữ văn cho học sinh. Hiệu trưởng phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá quá trình dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới cho học sinh. Hiệu quả quản lý nhà trường nói chung, hiệu quả quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới cho học sinh phụ thuộc trực tiếp vào phẩm chất và năng lực quản lý của hiệu trưởng nhà trường.
Quản lí hoạt động DH môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới bao gồm quản lí toàn bộ HĐD của GV và hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh.
Trong quá trình dạy học, bản chất tác động sư phạm của GV đối với học sinh là sự điều khiển. Bởi thế, hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào quản lí HĐD của GV để quản lí HĐH của học sinh, quản lí chất lượng dạy học của Tổ bộ môn.
Quản lí hoạt động DH Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới chính là quá trình nhà quản lí hoạch định, tổ chức, chỉ đạo, điều khiển, kiểm tra, đánh giá hoạt động DH của GV nhằm đạt được mục tiêu dạy học, mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Quản lí hoạt động DH Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới là quá trình quản lí nhằm đảm bảo việc dạy và học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới của GV và HS được tiến hành theo đúng phương pháp, thể hiện qua những kỹ thuật hiện đại một cách có hiệu quả. HS là trung tâm hoạt động trên lớp, GV và các phương tiện kỹ thuật có vai trò hỗ trợ. Trang bị cho HS các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, kiến thức về đất nước, con người, văn hóa, văn minh, phong tục, tập quán… của dân tộc. Kết quả cuối cùng là HS phải thể hiện được kiến thức ngữ pháp, cấu trúc, vốn từ vựng, phát âm… Bên cạnh đó, HS còn hiểu biết và vận dụng có chọn lọc những nét văn hóa, văn minh của ngôn ngữ, mục tiêu kết hợp với phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các kỹ năng giao tiếp: Nghe - Nói - Đọc - Viết.
1.4.2. Mục tiêu quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Mục tiêu của quản lý dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới có ý nghĩa quan trọng vì mục tiêu quy định các nhiệm vụ, chi phối việc lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện, các con đường và hình thức tổ chức hoạt động quản lý của hiệu trưởng.
Khi quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới, người Hiệu trưởng phải căn cứ mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung, mục tiêu giáo dục THCS nói riêng; căn cứ chương trình dạy học của trường trung học để định hướng việc xây dựng nội dung hoạt động dạy học Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Người Hiệu trưởng phải căn cứ mục tiêu giáo dục mà định hướng việc lựa chọn, thiết kế nội dung, chương trình giáo dục toàn trường theo năm học, học kỳ, theo khối lớp.
- Thành lập tổ, nhóm chuyên môn Ngữ văn dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới của nhà trường.
- Nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học phải được thiết kế phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh từng khối, lớp; đặc điểm điều kiện thực tế của nhà trường.
- Đòi hỏi phát huy vai trò tích cực, chủ động của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới đáp ứng yêu cầu kế hoạch đặt ra của nhà trường, của bộ môn Ngữ văn.
- Phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường, giữa giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn và giáo viên chủ nhiệm để giúp học sinh tiếp cận, lĩnh hội tri thức môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới được hiệu quả.
1.4.3. Nội dung quản lý của Hiệu trưởng trường THCS đối với hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Nội dung quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới được thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
1.4.3.1. Quản lý việc thực hiện mục tiêu dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Mục tiêu dạy học là cơ sở để chỉ đạo xây dựng và triển khai nội dung chương trình dạy học, đồng thời là chuẩn mực để đánh giá kết quả hoạt động dạy học. Quản lý thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học môn Ngữ văn là quản lý việc thực hiện kế hoạch dạy học theo mục tiêu của nhà trường.
Hiệu trưởng cần phải nắm vững chương trình, mục tiêu đào tạo, quán triệt và chỉ đạo tổ chuyên môn, các giáo viên tuân thủ một cách nghiêm túc; Chỉ đạo thực hiện và giám sát, đánh giá kết quả thực hiện hoạt động dạy học môn Ngữ văn đảm bảo đạt được mục tiêu môn học đề ra trên cơ sở kiểm soát việc xây dựng mục tiêu theo đề cương môn học, triển khai cụ thể hoá mục tiêu trong đề cương bài giảng, trong các hoạt động trên lớp và ngoài giờ lên lớp của GV và HS, trong giám sát, rút kinh nghiệm việc đánh giá kết quả học tập của HS theo mục tiêu của môn học đã công bố để điều chỉnh, nâng cao chất lượng dạy học.
1.4.3.2. Quản lý việc thực hiện nội dung, kế hoạch dạy học môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông mới
* Quản lý việc thực hiện nội dung
+ Triển khai thực hiện theo chương trình chuẩn kiến thức kỹ năng môn Ngữ văn theo chương trình GD phổ thông mới.
+ Xác định mục tiêu môn học dựa trên việc lựa chọn nội dung kiến thức trọng tâm theo quy định.
+ Có biện pháp hỗ trợ HS trong quá trình tự đọc, sưu tầm tài liệu, tự học.
+ Nhấn mạnh vấn đề trọng tâm trong sách giáo khoa, tài liệu học tập.
+ Cập nhật kiến thức, thông tin mang tính thực tiễn.
+ Thiết kế nội dung dạy học theo hướng liên môn, tích hợp, lồng ghép
+ Kết hợp nội dung giảng dạy lí thuyết với thực hành, vận dụng kiến thức cho HS.
+ Hướng dẫn HS cách thức, biện pháp tự học hiệu quả.
Trong quản lý nội dung chương trình môn Ngữ văn, hiệu trưởng cần tổ chức lao động một cách khoa học và xây dựng phong cách quản lý mới, thể hiện ở các dấu hiệu: Dân chủ trong quản lý; Tôn trọng nhân cách, quyền tự chủ của GV trong hoạt động dạy học; Phân biệt rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng thành viên trong nhà trường; Tôn trọng tính sáng tạo của GV, đồng thời coi trọng tinh thần hợp tác trong nhà trường.
* Quản lý việc thực hiện kế hoạch dạy học
+ Chỉ rõ những căn cứ để lập kế hoạch và phân tích đặc điểm tình hình dạy học môn Ngữ văn của nhà trường, tình hình học tập của HS...
+ Xác định mục tiêu của môn Ngữ văn trong chương trình;
+ Nắm chắc phân phối chương trình, các nguồn lực về giáo viên, đặc điểm học sinh, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, nguồn kinh phí cho hoạt động dạy học môn Ngữ văn...
+ Sử dụng cán bộ, giáo viên đúng khả năng và yêu cầu công việc; quan tâm đúng mức nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân của giáo viên...
+ Hướng dẫn giáo viên Ngữ văn lập kế hoạch dạy học chi tiết đối với các lớp, thể hiện kế hoạch trên thời khoá biểu của học kì;
1.4.3.3. Quản lý GV và hoạt động dạy học trên lớp của GV
Hoạt động dạy là một trong hai hoạt động trọng tâm của hoạt động dạy học môn Ngữ văn. Đây là hoạt động chuyên môn do giáo viên thực hiện, có vai trò quan trọng quyết định chất lượng môn Ngữ văn. Giáo viên có nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh, đồng thời phải không ngừng học tập rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ. Trong hoạt động này, giảng viên vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lý.
Quản lý hoạt động dạy môn Ngữ văn của giáo viên bao gồm:
a.Quản lý việc thiêt kế bài dạy của GV
Kết quả từng tiết học nói riêng và chất lượng của QTDH nói chung phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị trước giờ lên lớp của GV là:
- Chuẩn bị soạn bài kĩ lưỡng và dự tính các bước đi trong một tiết học, các việc có thể xảy ra trong mỗi tiết học, HTTC dạy học, PP giảng dạy phải phù hợp với trình độ nhận thức của HS, đổi mới PPDH, HTTC phải nâng cao hiệu suất một giờ lên lớp.
- Thiết kế bài giảng là một quá trình có tính hệ thống sử dụng những nguyên tắc dạy học nhằm hình thành hoạt động dạy, hoạt động học, biết sử dụng, khai thác các phương tiện dạy học, các tài liệu với nhiều cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận nội dung, tiếp cận mục tiêu, tiếp cận năng lực…
Thiết kế bài giảng cần xác định mục tiêu bài dạy sát với yêu cầu thực tiễn, biết lực chọn nội dung, biết tích hợp giữa lý thuyết với rèn kỹ năng và hình thành năng lực cho HS theo chương trình GDPT mới.
Hiệu trưởng cần yêu cầu các tổ, nhóm chuyên môn nghiên cứu kỹ nội dung CT mà mình thực hiện giảng dạy, trao đổi kỹ trong nhóm dạy để thống nhất về mục đích, yêu cầu, nội dung, PP, PT, HTTC dạy học theo chương trình GDPT mới.
b. Quản lý việc phân công giảng dạy cho giáo viên:
Việc phân công giảng dạy cho giáo viên cần phù hợp với các yêu cầu của công việc và nguyện vọng của cá nhân nên đòi hỏi sự phân công phải hợp lý, đúng khả năng, trình độ của từng giáo viên với các vị trí công việc tương ứng; cần hài hòa giữa việc cân đối số giờ thực giảng và số giờ thực hiện các công tác kiêm nhiệm, đảm bảo tương đối công bằng về khối lượng công việc cho giáo viên.
c. Quản lý việc chuẩn bị lên lớp của giáo viên:
Kết quả từng tiết học nói riêng và chất lượng của QTDH nói chung phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị trước giờ lên lớp của GV là:
- Chuẩn bị soạn bài kĩ lưỡng và dự tính các bước đi trong một tiết học, các việc có thể xảy ra trong mỗi tiết học, HTTC dạy học, PP giảng dạy phải phù hợp với trình độ nhận thức của HS, đổi mới PPDH, HTTC phải nâng cao hiệu suất một giờ lên lớp.
- Thiết kế bài giảng là một quá trình có tính hệ thống sử dụng những nguyên tắc dạy học nhằm hình thành hoạt động dạy, hoạt động học, biết sử dụng, khai thác các PTDH, các tài liệu với nhiều cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận nội dung, tiếp cận mục tiêu, tiếp cận năng lực…
- Thiết kế bài giảng theo PTNL cần xác định mục tiêu bài dạy sát với yêu cầu thực tiễn, biết lực chọn nội dung, biết tích hợp giữa lý thuyết với rèn kỹ năng và hình thành năng lực cho HS.