= | Dư nợ cho vay DNNVV | ×100% |
Tổng dư nợ |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển cho vay khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiêp Nhỏ Và Vừa Tại Ngân Hàng
- Phát Triển Hoạt Động Cho Vay Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Thực Trạng Phát Triển Cho Vay Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam - Chi Nhánh Bắc Ninh (Vietinbank Bắc Ninh)
- Dư Nợ Cho Vay Theo Đối Tượng Khách Hàng Của Ngân Hàng Tmcp Công Thương Bắc Ninh Giai Đoạn 2017-2019
- Kết Quả Phát Triển Cho Vay Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay DNNVV:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
= | Tổng nợ quá hạn | ×100% |
Tổng dư nợ |
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì nợ của NHTM được chia thành 05 nhóm.
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn;
(ii) Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
(ii) Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
(ii) Nợ gia hạn nợ lần đầu;
(iii) Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
(iv) Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp;
- Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn theo quy định của pháp luật;
- Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật;
- Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các tỷ lệ bảo đảm an toàn đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
(v) Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
(iv) Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn trên 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
(iv) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
(v) Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vii) Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản;
(viii) Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra các biến động bất lợi trong môi trường, lĩnh vực kinh doanh tác động tiêu cực trực tiếp đến khả năng trả nợ của khách hàng (thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, môi trường kinh tế);
b) Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn, dòng tiền, khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm qua 03 lần đánh giá, phân loại nợ liên tục;
c) Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
d) Khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 theo quy định tại điểm a, b và c khoản này từ 01 (một) năm trở lên nhưng không đủ điều kiện phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn.
đ) Nợ mà hành vi cấp tín dụng bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Như vậy, chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng trong việc xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Tỷ lệ nợ quá hạn cao thể hiện các khoản nợ của ngân hàng không được thu hồi đúng hạn càng cao, vốn tín dụng bị doanh nghiệp chiếm dụng càng lớn, rủi ro của các khoản vay cao dẫn đến chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại thấp. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp thể hiện các khoản vay có tỷ lệ rủi ro thấp, khả năng các khoản vay không được hoàn trả thấp, ngân hàng thương mại thu hồi được nợ gốc và lãi từ khoản vay đảm bảo cho hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn.
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ > 7% được xem là ngân hàng yếu kém, nếu chỉ số này ở mức dưới 5% ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao.
- Nợ xấu:
Nợ xấu theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về “phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập DPRR và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ”, là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ), nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).
= | Tổng nợ xấu | ×100% |
Tổng dư nợ |
Đây là một chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Cũng giống như tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng cho vay của ngân hàng càng cao và ngược lại. Theo quy định của ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ nợ xấu < 3% là chấp nhận được.
Đây là chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả cho vay DNNVV của NHTM về mặt chất lượng
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá mức độ sinh lời của hoạt động cho vay DNNVV:
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng và cao nhất mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hướng tới. Vì vậy, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng đối với DNNVV phản ánh cơ bản hiệu quả hoạt động tín dụng đối với DNNVV. Lợi nhuận được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
= | Lợi nhuận từ cho vay DNNVV | ×100% |
Dư nợ bình quân cho vay DNNVV |
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời từ các khoản cho vay DNNVV. Tỷ lệ sinh lời càng cao chứng tỏ khoản cho vay đó càng có hiệu quả.
= | Thu nhập từ cho vay DNNVV | ×100% |
Tổng thu nhập của ngân hàng |
Việc phân tích tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay giúp NHTM nhận biết được khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay DNNVV trong tổng thu nhập của ngân
hàng, từ đó đánh giá được tình hình cho vay và giúp NHTM có những biện pháp nâng cao hiệu quả cho vay.
Như vậy việc đánh giá hiệu quả cho vay DNNVV cần kết hợp nhiều chỉ tiêu với nhau, mỗi chỉ tiêu sẽ cho thấy được những khía cạnh khác nhau trong hoạt động cho vay của NHTM, giúp NHTM đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những khó khăn mà ngân hàng phải đối mặt trong hoạt động cho vay.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển cho vay DNNVV:.
1.2.3.1 .Nhân tố thuộc về phía ngân hàng thương mại:.
Các ngân hàng là chủ thể huy động lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng nó để cho vay lại đối với nền kinh tế. Ngân hàng có thể cho vay nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nguồn vốn tự có của ngân hàng, vào khả năng huy động vốn, công nghệ, uy tín, kinh nghiệm và nhận thức của cán bộ nhân viên ngân hàng về DNNVV.
Chất lượng thẩm định tín dụng và quy trình cho vay cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại, một hoạt động rất phức tạp và chứa nhiều rủi ro. Quy trình cho vay của các ngân hàng về cơ bản nội dung tương tự nhau, tuy nhiên nội dung chi tiết lại có nhiều điểm khác biệt. Điều này phụ thuộc vào qui mô của từng ngân hàng, cấu trúc các loại cho vay, năng lực của đội ngũ nhân sự, mức độ ứng dụng công nghệ tin học. Một quy trình cho vay càng chặt chẽ bao nhiêu thì rủi ro tín dụng càng giảm bấy nhiêu tuy nhiên vẫn phải đảm bảo thủ tục nhanh gọn. Để ra được một quyết định đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay vốn.
Một yếu tố vô cùng quan trọng nữa ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay đó là đạo đức của cán bộ tín dụng. Cán bộ có đạo đức không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng công tác thẩm định dẫn đến làm giảm chất lượng cho vay đối với DNNVV. Khi DNNVV cần vốn để hoạt động kinh doanh, họ sẽ tìm mọi cách để vay đựơc vốn. Các DNNVV có thể tiếp xúc, móc nối với cán bộ tín dụng để đạt được mục
đích. Nhất là đối với cán bộ tín dụng thì khâu thẩm định là quan trọng nhất, một quyết định đúng sẽ giúp ngân hàng có thu nhập và tránh được rủi ro những quyết định mang tính cá nhân sẽ gây ra những tổn thất không thể lường trước được. Do vậy, đạo đức của cán bộ ngân hàng là vô cùng quan trọng.
1.2.3.2 Nhân tố thuộc về doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Nhu cầu đầu tư của DNNVV: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như vậy. Do số lượng DNNVV có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có những lúc nhu cầu đầu tư của các DNNVV này không cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các DNNVV thường có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu muốn mở rộng tín dụng.
- Khả năng của DNNVV trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Chỉ những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng thì mới được xem xét cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau tùy theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm tới một số vấn đề sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực sản xuất kinh doanh của DNNVV, tính khả thi của dự án/phương án, các biện pháp bảo đảm.
Trên thực tế các DNNVV thường không có báo cáo tài chính được kiểm toán hoặc quyết toán thuế, hầu hết là các báo cáo do đơn vị tự lập do đó số liệu trên báo cáo tài chính chưa thật sự minh bạch, rõ ràng và chuẩn xác. Bên cạnh đó DNNVV có vốn chủ sở hữu thường thấp, ít có thương hiệu trên thị trường, quy mô hoạt động thu hẹp do đó khả năng chiếm lĩnh thị trường thấp hơn các doanh nghiệp lớn và rõ
ràng điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của các DNNVV quá thấp, thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng.
- Khả năng của DNNVV trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả: khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của DNNVV. C ó nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay của DNNVV đạt hiệu quả cao, trong đó có một số nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của DNNVV, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý DNNVV.
1.2.3.3 Nhân tố thuộc về môi trường khách quan:
* Môi trường kinh tế
Ngân hàng là một chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt nó đóng vai trò là trung gian kinh tế, là cầu nối giữa các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Chính vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng ổn định, sản xuất cũng phát triển là lúc nhu cầu vay vốn ngân hàng của các DNNVV để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh tăng lên. Đây là cơ hội cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay, nâng cao chất lượng của các khoản vay, thu hồi các khoản nợ đến hạn được thuận lợi và đây là giai đoạn ngân hàng thu đựơc mức lợi nhuận cao nhất.
* Môi trường chính trị
Sự ổn định chính trị sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp nền kinh tế của một nước phát triển. Tính ổn định của chính trị sẽ giúp các chủ DNNVV an tâm hơn khi bỏ vốn vào thị trường để đầu tư. Khi đó các DNNVV sẽ mở rộng đầu tư, muốn mở rộng đầu tư thì nguồn tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ có hiệu quả. Nếu tình