Cơ Sở Lý Luận Và Kinh Nghiệm Thực Tiễn Về Chính Sách Phát Triển Các Khu Du Lịch Quốc Gia‌


chính sách này.

- Phương pháp tổng hợp: Sử dụng để tổng hợp hoạt động và kết quả kinh doanh du lịch tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng Du lịch ĐBSH&DHĐB, ngoài ra, NCS còn sử dụng phương pháp này để tổng hợp các chính sách du lịch, quy trình chính sách phát triển du lịch và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng.

- Phương pháp so sánh: Áp dụng để thẩm định số liệu, thông tin trên cơ sở mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn để đánh giá từng nội dung chính sách và quy trình chính sách phát triển du lịch giữa các KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB trong thời gian vừa qua.

- Phương pháp phân tích: Áp dụng để phân tích số liệu thông tin, làm rõ hơn bản chất, mức độ và nguyên nhân của các thực trạng chính sách và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB.

1.2.2.2. Đối với phân tích dữ liệu sơ cấp

Đối với phiếu khảo sát DNDL tại các KDLQG đã được xác định trong Quy hoạch vùng ĐBSH&DHĐB, NCS phân tích các dữ liệu sơ cấp bằng cách:

Bước 1: Dùng phần mềm excel để xử lý dữ liệu

Bước 2: Đưa ra kết luận về mức độ đánh giá của doanh nghiệp theo mức sau:




𝑋

= 5

: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức rất tốt

4


𝑋

< 5

: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức tốt

3


𝑋

< 4

: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức trung bình

2


𝑋

< 3

: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức kém

1


𝑋

< 2

: Đánh giá của doanh nghiệp ở mức rất kém

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc Việt Nam - 5


CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC KHU DU LỊCH QUỐC GIA‌


2.1. Một số khái luận cơ bản về chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia

2.1.1. Khu du lịch quốc gia

2.1.1.1. Khái niệm khu du lịch quốc gia

Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về KDL. Dưới góc nhìn của nhà quy hoạch, tác giả Edward Inskeep (Tourism Planning: An Integrated and Sustainable Development Approach, 1991) đã viết: “KDL là một khu vực cung cấp đồng bộ các dịch vụ và tiện nghi đặc thù cho khách du lịch, đặc biệt là những tiện nghi được thiết kế phù hợp phục vụ các mục đích, nhu cầu du lịch. Các KDL thường thể hiện tính tổng hợp cao, được qui hoạch mới hoặc kế thừa một vài KDL cũ chưa được quy hoạch nhưng vẫn đang hoạt động, cung ứng các tiện nghi và dịch vụ cho du khách”. Cũng theo tác giả này, khái niệm về KDL được hiểu là “một khu vực lãnh thổ thống nhất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch trên cơ sở các yếu tố đặc thù về du lịch ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai”.

Tư tưởng cơ bản của khái niệm trên bao gồm: 1) KDL là một SPDL, trong đó, sản phẩm là một tài nguyên và đi kèm với nó là quá trình phát triển tài nguyên đó ;

2) Sự phát triển KDL có thể do Nhà nước, tư nhân hoặc các tổ chức phi lợi nhuận tiến hành; Thành phần cơ bản của SPDL trong KDL là giá trị hấp dẫn của TNDL được hỗ trợ bởi các dịch vụ và các trang thiết bị phục vụ.

Ở Việt Nam, điều 6, Luật Du lịch Việt Nam 2017, KDL được định nghĩa là “khu vực có ưu thế về TNDL, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. KDL bao gồm KDL cấp tỉnh và KDLQG ”.

Như vậy có thể hiểu, KDL là nơi có TNDL, có không gian diện tích đủ rộng, được quy hoạch đầu tư phát triển để trở thành nơi cung cấp đồng bộ các dịch vụ và tiện nghi du lịch đặc thù phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch; đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.

KDLQG là một khái niệm mới trên thế giới. Hiện nay chưa có quan niệm chung về KDLQG. Các quốc gia trên thế giới vẫn sử dụng quan niệm về KDL nói chung và xác định các KDLQG trên cơ sở giá trị nguồn TNDL tại đó mang giá trị cấp quốc gia (Ví dụ: Trung Quốc, Hàn Quốc,…). Tiêu chuẩn này khác nhau ở mỗi nước, vì thế, quan điểm về KDLQG ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Ở Việt Nam, KDLQG là danh hiệu do Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định công nhận cho một KDL đáp ứng đủ điều kiện tiêu chuẩn tương


ứng của một KDLQG, đó là các điều kiện, tiêu chí về tài nguyên, cơ sở hạ tầng, CSVCKT du lịch, các dịch vụ du lịch, an ninh,…

Theo khoản 2, điều 26, chương IV của Luật Du lịch Việt Nam 2017 và Điều 13, Chương IV, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP về Quy định một số điều của Luật Du lịch 2017, các điều kiện công nhận KDLQG cũng được quy định cụ thể. Trong đó, các tiêu chí xác định bao gồm:

1) “Có TNDL đa dạng, đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên hoặc giá trị văn hóa, có ranh giới xác định”. Cụ thể, theo quy định của Nghị định 168/2017/NĐ-CP, phải có ít nhất 02 TNDL, trong đó có TNDL cấp quốc gia; có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Tỷ lệ bản đồ phụ thuộc vào yêu cầu quản lý và địa hình khu vực. Trong đó, việc điều tra, đánh giá, phân loại TNDL được căn cứ kết quả điều tra, đánh giá về giá trị, sức chứa, mức độ hấp dẫn, phạm vi ảnh hưởng và khả năng khai thác TNDL phục vụ phát triển du lịch; TNDL được phân loại thành TNDL cấp quốc gia và TNDL cấp tỉnh. TNDL cấp quốc gia có giá trị, sức chứa, mức độ hấp dẫn, phạm vi ảnh hưởng tầm quốc gia, trách nhiệm quản lý, bảo vệ và khai thác TNDL cấp quốc gia thuộc thẩm quyền của Nhà nước.

2) “Có trong danh mục các khu vực tiềm năng phát triển KDLQG được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. Các danh mục này được xây dựng theo từng thời kì nhất định, có thể có sửa đổi, bổ sung,… Chẳng hạn như theo Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, cả nước có 46 KDL được định hướng quy hoạch phát triển thành du lịch quốc gia. Tuy nhiên, đến năm 2015, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đồng ý bổ sung Khu di tích Núi Sam (tỉnh An Giang) vào Danh mục các KDLQG và Khu di tích Núi Sam đã được chính thức công nhận trở thành KDLQG vào ngày 13/7/2018.

3) “Có kết cấu hạ tầng, CSVCKT, dịch vụ chất lượng cao, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch, bao gồm: a) Có cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đáp ứng tối thiểu 500.000 lượt khách mỗi năm; hệ thống cơ sở lưu trú du lịch đáp ứng tối thiểu 300.000 lượt khách lưu trú mỗi năm, trong đó có cơ sở lưu trú du lịch được công nhận hạng từ 4 sao trở lên; b) Có hệ thống điện lưới, hệ thống cung cấp nước sạch; c) Có nội quy, hệ thống biển chỉ dẫn, thuyết minh về KDL; có hệ thống biển chỉ dẫn, biển báo về giao thông, các cơ sở dịch vụ, các điểm tham quan; d) Cung cấp dịch vụ thuyết minh, hướng dẫn du lịch”.


4) “Có kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông quốc gia; đảm bảo đi lại và thông tin thuận lợi, xuyên suốt, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế và công nghệ hiện đại”.

5) “Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật, bao gồm: a) Có hệ thống thu gom và xử lý rác thải, nước thải tập trung theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; bố trí nhân lực làm vệ sinh môi trường; b) Có bộ phận bảo vệ, cứu hộ, cứu nạn; c) Công khai số điện thoại, địa chỉ của tổ chức quản lý KDL; d) Có bộ phận thông tin hỗ trợ khách du lịch; có hình thức tiếp nhận và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của khách du lịch; đ) Nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ, được thông gió và đủ ánh sáng, được bố trí đủ, tương ứng với số lượng khách du lịch vào thời kỳ cao điểm; e) Áp dụng các biện pháp phòng, chống cháy nổ theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, tại Việt Nam, KDLQG được hiểu là các KDL đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định của Luật Du lịch 2017 và Nghị định 168/2017/NĐ-CP (như trên phân tích) và sẽ được Chính phủ nước Việt Nam công nhận chính thức. Đây là quan điểm duy nhất ở Việt Nam về KDLQG và cũng là cách tiếp cận của NCS khi nghiên cứu luận án.

2.1.1.2. Đặc điểm khu du lịch quốc gia

KDLQG là khu vực địa lý có sức hấp dẫn về du lịch và có các hoạt động kinh doanh du lịch đảm bảo chất lượng. KDLQG có những đặc điểm riêng biệt, khác với các điểm hấp dẫn du lịch khác. Các đặc điểm của KDLQG được khái quát như sau:

- Được tổ chức hình thành, khai thác kinh doanh theo quy định của luật pháp quốc gia, được sự quản lý của các Bộ, ban, ngành cấp quốc gia. Tùy thuộc vào từng KDLQG mà sẽ xây dựng cách thức tổ chức quản lý khác nhau. Tổ chức hình thành KDLQG nhất thiết phải có dự án và luận chứng kinh tế kỹ thuật và phải qua thẩm định theo trình tự quy định của pháp luật.

- Có khả năng mở rộng, gồm nhiều điểm hấp dẫn du lịch có sự liên kết với nhau. KDLQG cần có sự phân biệt rõ ranh giới hành chính, tuy nhiên, tùy từng KDLQG mà quy mô và diện tích của nó sẽ có sự khác nhau. Trong đó có xác định các điểm tham du lịch trong cùng phạm vi địa giới hành chính, tạo ra cụm điểm du lịch liền kề, hấp dẫn, có nét đặc trưng chung, thu hút du khách trong và ngoài nước.

- Có sức hấp dẫn đặc biệt, được xây dựng và hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế, bao gồm các yếu tố hấp dẫn đặc biệt như TNDL được xếp hạng quốc gia (phong cảnh thiên nhiên, di tích lịch sử, văn


hóa) và các sự kiện ở mức độ ít nhất là thu hút được thị trường trong vùng, ngoài ra còn có sức hút với thị trường cả nước và quốc tế. Tùy thuộc từng KDLQG sẽ có các đặc điểm TNDL khác nhau, tạo ra nét hấp dẫn riêng, thu hút du khách.

- Có giá trị và quy mô đủ lớn về nguồn tài nguyên và giá trị khai thác trong du lịch theo quy định của từng quốc gia, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cho địa phương và quốc gia, bao gồm tất cả các đối tượng có liên quan như khách du lịch, người dân địa phương, DNDL và chính quyền sở tại.

- Mang tính đặc trưng riêng của vùng (về lịch sử, văn hóa, tự nhiên, nhân tạo) có thể tạo nên sự khác biệt và cạnh tranh được với các KDL khác. Tính cạnh tranh về giá trị tài nguyên được xét cấp vùng hoặc cấp quốc gia, mang lại nét khác biệt và hấp dẫn đặc biệt hơn với du khách so với các điểm đến du lịch khác.

- Được quy hoạch và đầu tư đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch bền vững. KDLQG phải nằm trong quy hoạch tổng thể du lịch quốc gia, quy hoạch phát triển kinh tế vùng lãnh thổ và theo những định hướng chiến lược phát triển du lịch thống nhất chung của quốc gia.

- Các KDLQG có thể được xây dựng khép kín hoặc không khép kín, trong đó có thể có hoặc không có dân cư địa phương sinh sống. Tùy thuộc vào đặc trưng của giá trị TNDL từng vùng, các KDLQG khác nhau sẽ được xây dựng và tổ chức theo các cách khác nhau. Trên cơ sở tính bền vững hoặc nhạy cảm của TNDL tại đó, có thể được khoanh vùng hoặc không, do vậy có thể có hoặc không cho phép sự tham gia của người dân địa phương trong các hoạt động du lịch.

2.1.2. Phát triển khu du lịch quốc gia

2.1.2.1. Khái niệm phát triển khu du lịch quốc gia

KDLQG là danh hiệu do người đứng đầu quốc gia ra quyết định công nhận trên cơ sở các điều kiện được quy định rõ ràng theo tiêu chuẩn từng quốc gia (theo Luật Du lịch 2017 và Nghị định 168/2017/NĐ-CP của Việt Nam). Vấn đề cốt lõi để phát triển KDLQG là khai thác được TNDL để đáp ứng tốt nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy phát triển KDLQG trọng tâm là phát triển du lịch tại các KDLQG. Đây là quan điểm NCS sử dụng trong luận án.

Theo cách tiếp cận truyền thống, phát triển du lịch tại các KDLQG là việc mở rộng quy mô, cơ cấu SPDL, đồng thời tăng chất lượng dịch vụ du lịch tại KDLQG.

Theo cách tiếp cận về kinh tế du lịch, phát triển du lịch tại các KDLQG là việc tăng khả năng cung dịch vụ du lịch tại đây, đồng thời kích thích tăng cầu tiêu dùng


dịch vụ du lịch của du khách, bên cạnh đó, tăng cường các điều kiện hoạt động và môi trường hoạt động kinh doanh du lịch tại các KDLQG.

Như vậy, phát triển du lịch tại các KDLQG là sự gia tăng về số lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý các loại hình dịch vụ du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch tại KDLQG nhằm cung ứng tốt hơn cho khách du lịch và đem lại lợi ích ngày càng cao cho các đối tượng liên quan khác (như chính quyền địa phương, công ty du lịch và cộng đồng dân cư), từ đó đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững cho các KDLQG và địa phương có KDLQG đó.

2.1.2.2. Nội dung phát triển khu du lịch quốc gia

Trên cơ sở khái niệm về phát triển KDLQG được NCS đề xuất ở trên, nội dung phát triển KDLQG bao gồm các vấn đề sau:

- Quy hoạch, phát triển KDLQG nhằm đảm bảo phát triển cơ cấu hợp lí các lĩnh vực trong ngành du lịch và giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác, đảm bảo mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan. Xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển luôn là một trong những nhiệm vụ QLNN quan trọng đối với sự phát triển của bất kỳ ngành/lĩnh vực kinh tế - xã hội nào, trong đó có ngành/lĩnh vực du lịch. Quy hoạch phát triển các KDLQG là quy hoạch ngành và du lịch được xác định là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Đối với mọi cấp, quy hoạch du lịch là rất cần thiết để có thể quản lý và thành công trong sự phát triển ngành du lịch tại điểm đến. Kinh nghiệm cho thấy những địa phương phát triển du lịch không có quy hoạch đều gặp phải những vấn đề về xã hội và môi trường, giảm lợi ích về kinh tế, không thể nào cạnh tranh một cách hiệu quả đối với bất kỳ một điểm đến khác đã có quy hoạch du lịch. Theo đó, để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả và lợi ích đạt được, việc lập quy hoạch phát triển du lịch tại KDLQG phải đảm bảo phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của vùng du lịch, chiến lược phát triển ngành du lịch; bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu du lịch, đồng thời phát huy được thế mạnh để tạo ra SPDL đặc thù của từng địa phương, từng vùng nhằm sử dụng hợp lý, hiệu quả TNDL tại các KDLQG.

- Bảo vệ, tôn tạo TNDL, các giá trị văn hóa và môi trường du lịch ở các KDLQG, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và tăng mức độ thỏa mãn sự trải nghiệm của du khách. Môi trường tự nhiên và xã hội cần được bảo vệ, tôn tạo và phát triển mới đảm bảo chất lượng SPDL và phát triển du lịch bền vững. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi quyền hạn ban hành các quy định, UBND các cấp tại các vùng du lịch phải có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với


thực tế tại địa phương. Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm xử lý các loại chất thải phát sinh trong quá trình kinh doanh. Khách du lịch, dân cư tại vùng du lịch có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ giá trị di sản văn hóa, bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người và du lịch Việt Nam.

- Nghiên cứu, đầu tư xây dựng và phát triển SPDL, tăng quy mô, sô lượng và chất lượng SPDL tại các KDLQG, đảm bảo gìn giữ và phát huy được các giá trị TNDL. Để có SPDL và phát triển du lịch, cần có sự liên doanh, liên kết cả trong và ngoài ngành du lịch, cả địa phương với trong và ngoài nước. Nhu cầu của thị trường thì lớn nên cần kích cầu du lịch một cách phù hợp, chú trọng khâu đầu tư vào SPDL cần liên kết để theo kịp, trước hết là với các DNDL tại vùng du lịch. Cần có dịch vụ cho khách “dừng chân” như các dịch vụ vui chơi giải trí. Đảm bảo tuyệt đối an toàn phương tiện tàu thuyền, văn hoá ẩm thực, du lịch tìm hiểu phong tục tập quán sinh hoạt cộng đồng dân tộc. Ngay trong việc đầu tư xây dựng SPDL tại các KDLQG tại các vùng du lịch tối thiểu cũng cần tới sự liên kết của ba nhà: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà tổ chức du lịch.

- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, đầu tư phương tiện cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao tại các KDLQG, tăng tiện nghi và nâng cao mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách tại đây. Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đảm bảo an ninh, an toàn, trật tự xã hội và vệ sinh môi trường tại các KDLQG. Phát triển mạng lưới giao thông thuận tiện và nhanh chóng, tạo điều kiện phát huy hiệu quả hoạt động phục vụ du lịch. Đầu tư đổi mới, nâng cấp và hiện đại hóa các phương tiện vận chuyển khách du lịch đa dạng, cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ. Ưu tiên các dự án quan trọng, tăng cường công tác quản lý các công trình xây dựng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, việc đầu tư nâng cấp chất lượng CSVCKT, thiết bị, công nghệ phục vụ du lịch hiện đại cũng rất quan trọng. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng các tuyến, điểm và KDL hiện đại. Hiện đại hoá các phương tiện thông tin liên lạc và các trang thiết bị phục vụ du khách.

- Đào tạo, phát triển NNL du lịch đảm bảo đủ số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu tại địa phương phát triển du lịch. Phát triển NNL du lịch cần tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng của lực lượng lao động trong ngành du lịch, từ đó góp phẩn khẳng định chất lượng dịch vụ cung ứng, gồm: lao động thuộc các cơ quan QLNN về du lịch từ TW đến địa phương, lao động trong các DNDL gồm đội


ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, đội ngũ lao động nghiệp vụ trong các khách sạn - nhà hàng, công ty lữ hành, vận chuyển du lịch..., lao động làm công tác đào tạo du lịch trong các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.

- Xúc tiến, quảng bá du lịch: Xúc tiến, quảng bá du lịch để thu hút vốn đầu tư, tiêu thụ sản phẩm cần được quan tâm. Các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội nghị, hội thảo cần tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân về du lịch. Ngành Du lịch và các DNDL tại các KDLQG cần tham gia vào nhiều hội chợ du lịch của khu vực và quốc tế nhằm quảng bá các SPDL của KDLQG để thu hút khách.

2.1.3. Chính sách phát triển khu du lịch quốc gia

2.1.3.1. Khái niệm chính sách phát triển khu du lịch quốc gia

Có rất nhiều quan điểm về chính sách, dưới đây là một số khái niệm cơ bản: Theo tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy và Bùi Thị Hồng Việt (Chính sách kinh tế

- xã hội, 2012) “Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định

và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình quyết định. Chúng chỉ ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào có thể và những quyết định nào không thể”. Như vậy, chính sách chính là định hướng hành động và cả những giải pháp cần thiết để hiện thực hóa những định hướng đó. Mọi chủ thể đều có chính sách của riêng mình như Nhà nước có chính sách của Nhà nước, địa phương có chính sách của địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội – văn hóa cũng có những chính sách riêng của mình.

Theo tác giả Phan Kim Chiến (Phân tích chính sách, 2012), “chính sách là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và các công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề, thực hiện những mục tiêu nhất định”. Chính sách của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của quốc gia và địa phương, đối với cả nền kinh tế - văn hóa – chính trị – xã hội, hoặc có thể đối với từng ngành riêng biệt. Các chính sách được thực hiện thông qua bộ máy các ngành, các cấp có liên quan (chiều ngang), hoặc từ TW đến địa phương và đến cá nhân (chiều dọc). Chính sách được thể hiện qua các văn bản bao gồm Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm ở TW và địa phương; Ở cấp TW bao gồm luật, pháp lệnh, nghị quyết (của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội), Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/04/2023