Tốc độ tăng doanh số trong khách hàng doanh nghiệp
Doanh số năm (n) – Ds năm trước (n-1)
Tỷ lệ tăng trưởng doanh số (%) = ×100
DS năm trước (n-1)
Đây là chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tín dụng về quy mô, phản ánh tốc độ tăng trưởng doanh số của năm n so với năm (n-1). Chỉ tiêu này càng cao thì NHTM càng phục vụ được càng nhiều khách hàng và ngược lại.
Thị phần cho vay khách hàng doanh nghiệp
Mức độ tăng trưởng thị phần là mức tăng thị phần của ngân hàng qua thời gian. Chỉ tiêu này đánh giá năng lực chiếm lĩnh thị phần về cho vay khách hàng doanh nghiệp trên thị trường. Đối với hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp, thị phần của một ngân hàng có thể biểu hiện thông qua số lượng khách hàng mà ngân hàng đó cung cấp sản phẩm cho vay. Thị phần này một mặt thể hiện sức cạnh tranh của ngân hàng vì thị phần lớn chứng tỏ năng lực cho vay khách hàng doanh nghiệp và vị trí thống lĩnh của ngân hàng trên thị trường cao. Mặt khác nó đánh giá chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp vì chất lượng cao thu hút nhiều khách hàng, tạo doanh thu cap hơn so với ngân hàng khác.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt - 2
- Tổng Quan Về Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Thương Mại
- Chất Lượng Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Chất Lượng Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiệp Của Một Số Nhtm Trong Nước Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Lienvietpostbank
- Sơ Đồ Tổ Chức Ngân Hàng Tmcp Bưu Điện Liên Việt
- Lợi Nhuận Của Ngân Hàng Thương Mại C Phần Ưu Điện Liên
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Để nâng cao chất lượng cho vay đối với DNTM, các NHTM cần đưa ra những chính sách, hành động, phương hướng kinh doanh hợp lý. Cụ thể như sau:
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi một tổ chức ngay từ khi được thành lập ra đã phải có một phương châm hoạt động nhất định và phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra. Đó là một tiêu chí rất quan trọng đối với các ngân hàng
thương mại.Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình cạnh tranh càng ngày càng trở nên gay gắt, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một phương châm, chiến lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả. Đó là một điều kiện vô cùng quan trọng giúp cho ngân hàng có định hướng nhất quán trong việc khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có và có thể thích ứng tốt với những biến đổi của môi trường kinh doanh gay gắt hiện nay.
Chính sách cho vay
Chính sách cho vay của một NHTM được xem như là kim chỉ nam trong hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Khi có một chính sách cho vay đúng đắn, đồng bộ, khoa học và thống nhất thì nó sẽ xác định cho các cán bộ tín dụng một phương hướng đúng đắn khi thực hiện nhiệm vụ của mình từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế - xã hội của họat động cho vay. Tuy nhiên, khi chính sách cho vay đặt ra không đầy đủ, đúng đắn, khoa học sẽ tạo ra một định hướng lệch lạc cho hoạt động cho vay, dẫn đến việc cấp vốn vay không đúng đối tượng, không đúng mục đích hoặc tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn và từ đó sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế thậm chí dẫn đến rủi ro cho khoản cho vay.
Quy mô nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Như ta đã biết, tất cả các hoạt động cho vay của NHTM đều phải tuân theoquy định liên quan đến hoạt động cho vay của pháp luật. Quyết định 1627 của thống đốc NHNN về quy chế cho vay của một tổ chức tín dụng đối với một khách hàng có quy định … dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn ủy thác của chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hay trường hợp khách hàng vay là một tổ chức tín dụng khác. Do đó, quy mô nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng cho vay của một ngân hàng.
Các ngân hàng lớn thường cung cấp các khoản cho vay có giá trị lớn cho các doanh nghiệp còn các ngân hàng nhỏ thường tập trung cho vay các khỏan có quy mô nhỏ - nghiệp vụ tín dụng bán l .
Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay
Đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Một ngân hàng sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho vay nếu những sản phẩm cho vay mà nó cung cấp cho khách hàng là đơn điệu, chất lượng hoạt động không cao. Một trong những đặc điểm đặc trưng của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là không có sự khác biệt, bản quyền khó xác định nên từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Thông tin tín dụng
Là tất cả các thông tin về tài chính, quan hệ tín dụng, đảm bảo tiền vay, tình hình tín dụng và thông tin pháp lý của khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Hệ thống thông tin tín dụng được đưa ra nh m hình thành cơ sở dữ liệu về khách hàng để phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng. Mục đích quan trọng nhất của nó là tìm kiếm và phát hiện ra sớm các khoản tín dụng có vấn đề để đánh giá đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ đồng thời dự báo trước khả năng một khoản tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu.Trên cơ sở thông tin thu được, ngân hàng sẽ quyết định được một cách đúng đắn hơn trong quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng. Chất lượng của thông tin tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay. Khi thông tin tín dụng đầy đủ, chính xác sẽ góp phần hạn chế và ngăn ngừa được phần nào rủi ro tín dụng, rủi ro lựa chọn đối nghịch do thiếu thông tin không cân xứng về đối tượng đầu tư từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động tín dụng.Thông tin tín dụng có thể khai thác từ các nguồn khác nhau. Có thể nguồn bên trong hay bên ngoài hệ thống; chính thức hay phi chính thức. Việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất
lượng hoạt động tín dụng từ đó ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNTM.
Trình độ cán bộ công nhân viên
Trình độ của cán bộ làm công tác cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Khi các cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức và hiểu biết sâu rộng thì sẽ có thể phân tích và nắm bắt được tình hình của khách hàng và từ đó đưa ra được quyết định tín dụng chính xác. Ngược lại, khi các cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực lao động, chưa được đào tạo một cách đầy đủ thì sẽ thiếu khả năng phân tích và đánh giá một cách chính xác về khách hàng vay vốn, không bao quát được các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai sót trong hồ sơ vay vốn của khách hàng nên từ đó đem ra những quyết định thiếu chính xác, gây nên những hậu quả xấu cho ngân hàng.
Chất lượng kiểm soát nội bộ
Ban kiểm soát nội bộ là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của NHTM. Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân hàng. Thông qua kiểm soát nội bộ giúp cho các nhà lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra; phát hiện những thuận lợi, khó khăn để từ đó đề ra những biện pháp giải quyết kịp thời. Các quy chế, thể lệ và nguyên tắc cho vay nếu cán bộ không nắm vững sẽ gây ra những tổn thất, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng.Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng thường xuyên, chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động cho vay đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, yêu cầu thể lệ trong quy chế cho vay cũng như quy trình cho vay . Kiểmsoát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động cho vay kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng cho vay.
Quản trị rủi ro
Rủi ro là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của NHTM trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến thời hạn phải thanh toán. Một trong những hoạt động chính của NHTM là hoạt động cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả vì nếu ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Trên thực tế, rủi ro tín dụng biểu hiện ở ba dạng:
+ Khách hàng làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ.
+ Giá trị tài sản thế chấp bị giảm giá và không thể bù đắp lại toàn bộ giá trị khoản vay khi phát mãi.
+ Ngân hàng tập trung quá nhiều vốn cho vay một hay một nhóm khách hàng, khi các khách hàng này gặp phải rủi ro do những biến động kinh tế sẽ gây ảnh hưởng lớn tới ngân hàng.
Rủi ro tín dụng và chất lượng tín dụng có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Khi rủi ro tín dụng được hạn chế thì chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao. Quản lý rủi ro tín dụng được thực hiện trên cơ sở chính sách, thể lệ cho vay của từng ngân hàng. Việc quản lý rủi ro tín dụng phải được thực hiện thận trọng trong từng bước nh m đánh giá đúng đắn năng lực tài chính của khách hàng và khả năng thành công của dự án vay vốn. Việc quản lý tốt rủi ro tín dụng sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tốt tới chất lượng tín dụng.
1.2.3.2 Nhân tố khách quan
Các nhân tố từ doanh nghiệp thương mại
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thương mại.
Năng lực tài chính của DNTM là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì tình hình tài chính sẽ vững mạnh từ đó mới có thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng và có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng. Năng lực tài chính được thể hiện ở khối lượng vốn chủ sở hữu và tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn kinh doanh của DNTM. Vốn chủ sở hữu này sẽ phản ánh khả năng tự chủ tài chính, khả năng chống chọi với hoàn cảnh bất lợi của doanh nghiệp. Khi tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp càng nhỏ chi phí vốn vay càng lớn và đó có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ và mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp.
Phương án sản xuất kinh doanh
Đây là một vấn đề liên quan đến tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó. Khi tiến hành phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tính toán doanh thu thu được, các chi phí liên quan và lỗ lãi. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định là có tiến hành thực hiện các dự án hay không. Là một trong những điều kiện vay vốn hàng đầu của DNTM. Để đảm bảo thu hồi được vốn vay từ các doanh nghiệp, ngân hàng phải chọn những phương án khả thi, có khả năng thực hiện được và thực sự có hiệu quả để tiến hành đầu tư. Do vậy, việc doanh nghiệp có khả năng vay vốn của ngân hàng phụ thuộc một phần vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó có khả thi hay không.
Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ
Khi một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt thì sẽ có được chiến lược kinh doanh tốt, khả năng kinh doanh tốt và có thể quản lý vốn tốt. Nó được thể hiện ở cách thức tổ chức hoạt động chung, tổ chức hoạt động sổ sách kế toán, quản lý tài chính hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, môi
trường kinh doanh. Nó còn thể hiện ở trình độ nhận định thị trường để có được chiến lược kinh doanh năng động và các biện pháp nh m chống chọi lại những biến động bất lợi của thị trường. Năng lực quản lý này ảnh hưởng trực tiếp đến đội ngũ cán bộ, đến sản phẩm của doanh nghiệp, đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, mối quan hệ với các đối tác. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng để ngân hàng đưa ra quyết định có cho DNTM vay vốn hay không và nếu vay thì với hạn mức là bao nhiêu.
Đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của DNTM và đây chính là thiện chí trả nợ của chủ DNTM. Đạo đức kinh doanh của DNTM thể hiện ở việc doanh nghiệp trung thực, sử dụng vốn đúng mục đích, quản lý tốt, báo cáo thật, đảm bảo hoạt động kinh doanh được lành mạnh, đảm bảo trả nợ được cho ngân hàng.
Các DNTM luôn muốn có thể tiếp cận được nhiều hơn tới nguồn vốn của ngân hàng. Nếu các DNTM báo cáo một cách đầy đủ, minh bạch, sử dụng vốn đúng mục đích kinh doanh, thực hiện vay và trả tốt thì có thể tiếp cận được nhiều hơn đối với nguồn vốn đó. Tuy nhiên, nếu các DNTM cố tình báo cáo sai lệch các thông tin, sử dụng vốn sai mục đích thì sẽ không thể tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ mất dần niềm tin đối với các DNTM từ đó sẽ thắt chặt các biện pháp đảm bảo tiền vay. Như v vậy thì sẽ càng hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các DNTM.
Hiệu quả cho vay là sự đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng về vốn vay phù hợp với phát triển kinh tế địa phương, cũng như của Nhà nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của Ngân hàng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu vay vốn hợp lý của các thành phần kinh tế cũng như tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng trước, trong và sau khi giao dịch với
Ngân hàng. Hiệu quả cho vay phải được xét ở cả ba phương diện, giữa hiệu quả kinh tế và lợi ích xã hội
Đối với Ngân hàng: Hiệu quả cho vay được xét trên hai phương diện là khả năng cho vay của Ngân hàng và khả năng thu hồi vốn vay. Khi ngân hàng thực hiện cho vay đủ chỉ tiêu và khả năng thu hồi nợ từ các món vay đó là cao, tức là Ngân hàng đã nâng cao hiệu quả cho vay. Khi cho vay ít hoặc khả năng thu hồi nợ từ các món vay bị giảm sút cũng có nghĩa là hiệu quả cho vay của ngân hàng giảm.
Đối với khách hàng vay vốn: Khoản vay có hiệu quả phải đảm bảo các yếu tố vay đủ số lượng, tốc độ giải ngân kịp thời, từ đó giúp cho hoạt động sản xuất được thực hiện đúng tiến độ, kế hoạch đã đặt ra, vòng quay lưu thông hàng hóa trôi chảy, dẫn tới hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận, trả đúng nợ cho Ngân hàng.
Đối với nền kinh tế: món vay hiệu quả sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, có tác động đến các ngành sản xuất, thúc đẩy sự chuyển dịch vốn từ ngành này sang ngành khác, mở rộng sản xuất kinh doanh giữa các ngành nghề, khai thác triệt để khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng trong việc tăng thu Ngân sách nhà nước, tăng thu ngoại tệ nhờ xuất khẩu ra nước ngoài.
Hiệu quả cho vay được hiểu là khả năng đáp ứng một cách phù hợp nhất nhu cầu về vốn của khách hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn và sinh lợi cho ngân hàng.
Cạnh tranh trong ngành ngân hàng
Có thể nói cạnh tranh trong ngành ngân hàng là yếu tố tác động mạnh mẽ hoạt động kinh doanh của NHTM nói chuung và hỏa động cho vay khách hàng doanh nghiệp nói riêng. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng: