Chất Lượng Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Thương Mại


Về bản chất, dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định.

Về phương pháp cho vay, vay theo dự án đầu tư tương tự như vay từng lần. Ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của sự án. Việc trả nợ được tiến hành theo định kỳ một cách đều đặn, lãi tiền vay thường được tính theo dư nợ đầu kỳ và trả cùng với nợ gốc.

Cho vay hợp vốn:

Đây là hình thức tín dụng mà qua đó một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của doanh nghiệp do một nhóm tổ chức tín dụng cho vay, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Vay hợp vốn được thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:

Theo hình thức này, ngân hàng cam kết đảm bảo s n sàng cho doanh nghiệp vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án. Ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng sự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

Hạn mức tín dụng dự phòng được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp cần chủ động về vốn cho việc thực hiện các dự án đầu tư trong tương lai. Để được ngân hàng cam kết cung cấp cho một lượng vốn trong thời gian thực hiện các dự án đó, doanh nghiệp phải trả phí cam kết tính cho hạn mức tín dụng dự phòng (kể cả trường hợp không rút vốn theo hạn mức này).

Tiếp cận vốn trung - dài hạn đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và càng trở nên quan trọng hơn với DN. Điều kiện cạnh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

tranh gay gắt đòi hỏi các DN phải có nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư và thực hiện các kế hoạch kinh doanh lâu dài.

Cho thuê tài chính

Chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt - 4

Cho thuê tài chính được coi là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.

Đối với DN, cho thuê tài chính là một công cụ tín dụng hữu hiệu. Thông thường, khi có nhu cầu trang bị máy móc, doanh nghiệp tìm đến ngân hàng để vay vốn mua các tài sản này. Do thiếu nguồn lực tài chính và không có tài sản bảo đảm nên doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vốn cần thiết. Việc sử dụng thành thạo công cụ cho thuê tài chính sẽ giải quyết được những khó khăn này của DN, đặc biệt là những doanh nghiệp chưa tạo dựng được uy tín trên thương trường.

Cho vay có bảo đảm

Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng cho phép doanh nghiệp trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Số tiền trả nợ mỗi kỳ được tính toán phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Đối với DN, đây là hình thức được sử dụng thường xuyên vì ngay cả trong trường hợp có đủ vốn thì các doanh nghiệp này vẫn tính đến việc vay trả góp


để có thể sử dụng nguồn vốn có s n vào các nhu cầu cấp thiết hơn. Để vay vốn thuận lợi, doanh nghiệp thường thế chấp hàng mua trả góp, nhưng với các tài sản có khả năng mất giá trong một thời gian ngắn thì ngân hàng buộc phải đưa ra mức phí cao, vì vậy doanh nghiệp phải tính toán khi lựa chọn hình thức tín dụng này.

Cầm cố: Đây là hình thức tín dụng mà qua đó, DN phải chuyển quyền kiểm soát tài sản sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Điểm cơ bản là cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát, bảo quản tương đối chắc chắn, việc kiểm soát tài sản cầm cố không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Cầm cố cũng có thể được áp dụng với hàng hoá trong điều kiện đó là những hàng hoá ít chịu tác động của môi trường.

Thế chấp:Doanh nghiệp phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.

Điểm khác biệt giữa thế chấp với cầm cố là nhiều tài sản của doanh nghiệp trở thành bảo đảm cho các khoản tài trợ của ngân hàng song vẫn phải tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khi đó ngân hàng không thể cầm cố. Mặt khác, các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán và việc chuyển nhượng thường phức tạp, giá trị của tài sản lớn nên doanh nghiệp thường thế chấp để vay ngân hàng với quy mô lớn.

Đối với DN, cầm cố và thế chấp là những hình thức tương đối dễ áp dụng và trên thực tế được các doanh nghiệp sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên, một trong những khó khăn đối với DN là phải chứng minh được quyền sở hữu đối với những tài sản đem cầm cố, thế chấp.

Ngoài ra, tại ngân hàng còn áp dụng những hình thức tín dụng khác là:


Cho vay gián tiếp

Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, ngân hàng có thể chuyển một số khâu của hoạt động cho vay như thu nợ, phát tiền vay, thu phí... sang các tổ chức trung gian (các tổ, hội, nhóm sản xuất, hội nông dân, hội phụ nữ...). Tổ chức này cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho thành viên khác vay trong trường hợp không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.

Tại một số quốc gia trên thế giới như Đức, Thái Lan, Đài Loan, Nhật... đây là một mô hình thành công trong việc cung cấp tín dụng cho DN. Ngân hàng cũng đã bước đầu triển khai mô hình này vì nhận rõ: khi ngân hàng không có đủ thông tin về doanh nghiệp thì phải cần đến bên thứ ba là các tổ chức, hiệp hội ngành nghề. Đây là nơi các DN hoặc bản thân chủ doanh nghiệp là thành viên nên thường nắm bắt đầy đủ hơn các thông tin và là đầu mối liên kết các doanh nghiệp, vì vậy ở một mức độ nhất định có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn.

1.2 Chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng thương mại

1.2.1 Quan niệm chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp

Trong hoạt động của ngân hàng thì cho vay là một hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập chính cho ngân hàng, cho vay còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Nói một cách khác chất lượng của một khoản vay được hiểu là lợi ích kinh tế mà khoản vay đó mang lại cho cả người đi vay và người cho vay. Một khoản vay của ngân hàng được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay đưa vào sản xuất kinh doanh tạo ra một số tiền lớn đủ để trang trải chi phí, trả được gốc và lãi cho ngân hàng và có lợi nhuận, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.


Chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh và đánh giá một cách trung thực, khách quan toàn bộ hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, qua đó cho thấy khả năng huy động và cho vay, mức độ cho vay, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cũng như khả năng tạo ra lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (Nguyễn Văn Tiến, 2009).

Chất lượng cho vay chính là đánh giá một cách trung thực khách quan toàn bộ hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Đó chính là khả năng huy động cho vay, khả năng trả nợ gốc và lãi đúng hạn và khả năng tạo ra lợi nhuận từ hoạt động cho vay của NHTM.

Quan hệ cho vay có sự tham gia của ngân hàng và khách hàng. Vì thế muốn đánh giá chất lượng cho vay phải có sự đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau: từ phía ngân hàng , khách hàng và nền kinh tế.

Xét từ góc độ khách hàng: Một khoản tín dụng được khách hàng đánh giá là tốt khi nó thỏa mãn được nhu cầu của họ. Mức độ thỏa mãn của khách hàng thể hiện ở chỗ khoản tín dụng đó được cung ứng một cách đầy đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn của họ với lãi suất, kỳ hạn, phương thức giải ngân, thu nợ hợp lý, các thủ tục vay vốn được tiến hành nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Xét từ góc độ kinh tế - xã hội: Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong lĩnh vực mà khoản tín dụng ngân hàng tham gia hoạt động.

Chất lượng các khoản cho vay tốt đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm cung ứng chất lượng tốt và giá thành hợp lý, đáp ứng nhu cầu trong nước, một phần cho xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người


lao động. Ngoài ra, nó còn thể hiện tính an toàn cao của hoạt động ngân hàng, nâng cao khả năng thanh toán, chi trả và hạn chế được rủi ro.

1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp

1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính

Các chỉ tiêu định tính thường được dùng để đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp:

Thứ nhất, thỏa mãn nhu cầu của các doanh nghiệp: điều này được biểu hiện b ng việc các doanh nghiệp có được đáp ứng vốn một cách kịp thời, nhanh chóng và thuận tiện hay không? Mỗi DN có nhu cầu vay vốn, thời hạn vay, phương thức vay khác nhau. Do vậy, ngân hàng cần đưa ra được các phương thức cho vay đa dạng và phù hợp với từng nhu cầu của các doanh nghiệp với một quy trình cho vay khoa học, chi tiết nhưng nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí.

Thứ hai, việc chấp hành đầy đủ các bước cần thiết trong quy trình cho vay: đây là cơ sở pháp lý đảm bảo cho món vay được an toàn, hiệu quả. Hiện nay, một quy trình cho vay bao gồm các bước cơ bản sau: lập hồ sơ đề nghị cho vay, phân tích, quyết định và ký hợp động cho vay, giải ngân, giám sát, thanh lý hợp đồng cho vay.

Thứ ba, khả năng thu hút và duy trì lượng khách hàng trung thành: một ngân hàng không những chỉ cần duy trì được khách hàng truyền thống mà muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì cần phải thu hút phát triển được thêm nhiều khách hàng mới đến vay vốn. Điều này phần nào phản ánh chất lượng cho vay của ngân hàng.


1.2.2.2 Nhóm các chỉ tiêu định lượng

Số lượng khách hàng doanh nghiệp đến vay vốn

Số lượng khách hàng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ phát triển hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp, số lượng khách hàng có thể tính theo một khoảng thời gian nhất định (quý, năm), nếu số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng để vay ngày càng tăng thì chứng tỏ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng ngày càng được mở rộng, uy tín trong phân khúc cho vay khách hàng cá nhân ngày càng được nâng cao và ngân hàng tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực này.

Cơ cấu cho vay khách hàng doanh nghiệp

Cơ cấu cho vay khách hàng doanh nghiệp phản ánh phân khúc, chính sách cho vay của mỗi ngân hàng. Tùy vào địa bàn hoạt động hoặc chính sách của từng ngân hàng trong mỗi thời kỳ khác nhau mà ngân hàng sẽ có cơ cấu các sản phẩm cho vay khách hàng doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ theo thời gian cho vay cho vay: Nếu tập trung phát triển cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ … trung dài hạn thì dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp trung dài hạn chiếm tỷ trọng cao, còn nếu ngân hàng tập trung phát triển vay vốn lưu động ngắn hạn thì dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng cao.

Thu nhập từ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp

Tất cả các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trước hết phải xuất phát từ lợi ích của khách hàng doanh nghiệp nhưng cuối cùng cũng nh m mục đích chính là đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tỷ trọng đóng góp của thu nhập từ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp vào tổng lợi nhuận trong hoạt động ngân hàng cũng giống như chỉ tiêu số lượng khách hàng, nó cho thấy sự chuyên môn hóa, chuyên nghiệp và thế mạnh trong việc cung cấp dịch vụ cho


vay khách hàng doanh nghiệp, thể hiện sự phát triển của sản phẩm dịch vụ ngân hàng phong phú và đa dạng.

Nợ quá hạn và nợ xấu trong cho vay khách hàng cá nhân

Dư nợ quá hạn trong CVKHDN quá hạn

Tỷ lệ dư nợ quá hạn trong CV KHDN = ----------------------------------------------- x 100%

Tổng dư nợ trong CVKHDN

Nợ quá hạn là khoản nợ đến thời điểm hoàn trả của khách hàng mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được.

Nợ xấu trong CVKHDN quá hạn

Tỷ lệ dư nợ xấu trong CV KHDN = -------------------------------------- x 100%

Tổng dư nợ trong CVKHDN

Nếu tỉ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vượt quá giới hạn cho phép phản ánh chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng còn yếu kém, chứa đựng nhiều rủi ro và ngược lại tỷ lệ nợ quá hạn thấp và được kiểm soát phản ánh chất lượng các khoản vay của ngân hàng được coi là tốt. Theo Khoản b, Điều 14, Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định về giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh của NHTM quy định các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu khi có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.

Tốc độ tăng trưởng dư nợ trong khách hàng doanh nghiệp

Dư nợ năm (n) – Dư nợ năm trước (n-1)

Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ (%) = ×100

Dư nợ năm trước (n-1)

Đây là chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tín dụng về quy mô, phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ của năm n so với năm (n-1). Chỉ tiêu này càng cao thì NHTM càng phục vụ được càng nhiều khách hàng và ngược lại.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 04/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí