Tiêu chuẩn 4. Kiểm tra đánh giá người học | |
- Giáo viên sử dụng nhiều hình thức đánh giá học phần, tùy theo đặc thù yêu cầu của từng học phần, đánh giá người học theo phương thức tích lũy kiến thức thông qua nhiều điểm thành phần, chuyên cần, kiểm tra giữa kỳ, và kết thúc học phần. - Hình thức và kế hoạch đánh giá được thông báo rộng rãi đến người học ngay buổi học đầu tiên và thông báo thời gian đánh giá ít nhất một tuần, bảng điểm và đáp án được công khai đến toàn thể sinh viên, tạo sự công bằng cho sinh viên. Các quy định về thủ tục khiếu nại kết quả đánh giá của người học được công bố công khai. | - Công tác tổ chức thi giữa kỳ và cuối kỳ chưa sử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế thi. - Nhà trường thường xuyên thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá mà không lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên. |
Tiêu chuẩn 5. Lấy ý kiến phản hồi từ các bên liên quan | |
- Để có được ý kiến chính xác của nội dung môn GDTC chúng tôi tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến của các giáo viên giảng dạy, sinh viên trực tiếp học nội dung môn GDTC đã xây dựng, các nhà quản lý các chuyên gia về TDTT, hội | - Thông tin ghi nhận nội dung phản hồi từ sinh viên, giáo viên, nhà quản lý chưa được tổ chức. - Quá trình ghi nhận chủ yếu dựa vào quan hệ cá nhân, nên thông tin ghi nhận được thiếu tính tổng quát. |
Có thể bạn quan tâm!
- Nhịp Tăng Trưởng Của Nam Và Nữ Sau Thực Nghiệm Môn Bóng Rổ
- Đánh Giá Về Kết Quả Học Tập Và Thể Lực Của Của Sinh Viên Sau Một Năm Thực Nghiệm
- Đánh Giá Về Nội Dung Môn Giáo Dục Thể Chất Và Kết Quả Đào Tạo, Của Các Nhà Quản Lý, Các Chuyên Gia Thể Dục Thể Thao Và Hội Đồng Nghiệm Thu
- Nghiên cứu nội dung môn giáo dục thể chất cho sinh viên trường đại học văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa - 26
- Nghiên cứu nội dung môn giáo dục thể chất cho sinh viên trường đại học văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa - 27
- Nghiên cứu nội dung môn giáo dục thể chất cho sinh viên trường đại học văn hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa - 28
Xem toàn bộ 307 trang tài liệu này.
- Hiện tại khoa/bộ môn chưa thực hiện được việc lấy ý kiến đánh giá của sinh viên đang theo học nội dung môn GDTC cũ, cũng như chất lượng giảng viên tham gia giảng dạy | |
Tiêu chuẩn 6. Kết quả đầu ra | |
- Sinh viên kết thúc môn học GDTC đạt yêu cầu đề ra của bộ môn GDTC được cấp chứng chỉ. - Là điều kiện xét tốt nghiệp cho sinh viên theo quy định của Bộ GD&ĐT khi ra trường. | Kết quả học tập đạt theo yêu cầu của bộ môn chưa cao, chủ yếu là do sinh viên chưa có ý thức tập luyện cao (khi học nội dung môn GDTC cũ) |
Bàn luận về nội dung môn Giáo dục thể chất đã xây dựng:
Theo Trần Thị Hoài (2006), Các tiêu chí đánh giá cấu trúc của chương trình đào tạo đại học theo học chế tín chỉ:
Mục tiêu đào tạo:
Phù hợp với bậc học đại học, phù hợp mục tiêu ghi trong Luật gáo dục, nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phát triển kinh tế - xã hội, CNH - HĐH và hội nhập
Phù hợp sứ mạng, mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của nhà trường.
Gắn nhu cầu học tập của người học với nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao đông;
Mục tiêu đào tạo rõ ràng, khả thi; làm rõ mục chung, mục tiêu cụ thể.
Nội dung chương trình đào tao:
Đảm bảo tính khoa học hệ thống; Đảm bảo tính cập nhật;
Đảm bảo tính kế thừa; Đảm bảo tính tích hợp; Đảm bảo tính liên thông; Đảm bảo tính cân đốí; Đảm bảo tính mềm dẻo; Phù hợp thực tiễn.
Thời lượng:
Đảm bảo phân bố hợp lý; Đảm bảo hiệu quả;
Kế hoạch đào tạo:
Khoa học;
Đảm bảo tính trình tự; Đảm bảo hiệu quả; Đảm bảo khả thi.
Đề cương học phần:
Thông tin về giảng viên; Thông tin chung về học phần; Mục tiêu của học phần;
Nội dung của học phần; Thời lượng;
Hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; Thang điểm;
Phương pháp giảng day; Học liệu.
Lộ trình đổi mới nội dung môn GDTC trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, chúng tôi đã nghiên cứu nội dung quy định của Bộ GD&ĐT, một số trường trong và ngoài nước, trường Đại học Quốc gia Hà
Nội Việt Nam, trường Đại học Giao thông Thượng Hải Trung Quốc, nhìn chung các trường đều có nội dung môn học chia làm hai phần, bắt buộc và tự chọn, đặc biệt phần tự chọn các trường đều xây dựng cho mình một nội dung môn học phong phú, phù hợp với đối tượng sinh viên, cơ sở vật chất, đặc điểm vùng miền vị trí địa lý, với mục đích nhằm nâng cao chất lượng đào tạo chung của nhà trường trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Từ thực tế trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa là một trường đa ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật, trường cần có nội dung môn học học hợp lý cho sinh viên. Vậy chúng tôi đã nghiên cứu và xây dựng nội dung môn GDTC cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường và đã đảm bảo các yêu cầu của xu thế đổi mới giáo dục đại học hiện nay, cụ thể như sau:
Đảm bảo Quy định về chương trình giáo dục đại học tại Điều 2 Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy (ban hành kèm theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BGDĐT ngày 26/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT) [11]. Quyết định số 31/2001/QĐ-BGD-ĐT ngày 30/7/2001 ban hành về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính qui theo học chế tín chỉ, điều 2 mục a, b [10]. Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007 ban hành qui chế đào tạo ĐH và CĐ hệ chính qui theo hệ thống tín chỉ [12]. Quyết định số 06/VBHN-BGDĐT ngày 04/3/2014, Quyết định ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học [16]. Thông tư số 25/2015/TT-BGDĐT ngày 14/10/2015 Quy định về chương trình môn học GDTC thuộc các chương trình đào tạo đại học hiện nay [17]. Hướng dẫn số 4108/BGDĐT-GDTC ngày 07/9/2017 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTC, hoạt động thể thao và y tế trường học năm học 2017-2018 [19].
Cấu trúc của nội dung môn GDTC đã lựa chọn mới bao gồm các thành phần sau: Mục tiêu đào tạo; Nội dung đào tạo; Phương pháp hay quy trình đào tạo; Cách đánh giá kết quả đào tạo. Cách sắp xếp trên cho thấy rõ đây là một quá trình liên tục để hoàn thiện và không ngừng phát triển chương trình giáo dục, khâu nọ ảnh hưởng trực tiếp đến khâu kia, không thể tách rời từng khâu riêng rẽ hoặc không xem xét đến tác động hữu cơ của các khâu khác. Chẳng hạn, khi bắt đầu thiết kế một nội dung môn học giáo dục cho một khóa học nào đó người ta thường phải đánh giá nội dung giáo dục hiện hành (khâu đánh giá nội dung giáo dục), sau đó kết hợp với việc phân tích tình hình cụ thể - các điều kiện dạy và học trong và ngoài trường, nhu cầu đào tạo của người học và của xã hội… (khâu phân tích tình hình) để đưa ra mục tiêu đào tạo của khóa học.
Xác định nội dung đào tạo, lựa chọn các phương pháp giảng dạy, phương tiện hỗ trợ giảng dạy, phương pháp kiểm tra, thi thích hợp để đánh giá kết quả học tập. Tiếp đến cần tiến hành thử nghiệm chương trình giáo dục ở qui mô nhỏ xem nó có thực sự đạt yêu cầu hay cần phải điều chỉnh gì thêm nữa. Toàn bộ công đoạn trên được coi như giai đoạn thiết kế chương trình giáo dục.
Kết quả của giai đoạn thiết kế nội dung môn học giáo dục sẽ là một bản giáo dục cụ thể, nó cho biết mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo, các điều kiện và phương tiện hỗ trợ đào tạo, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cũng như việc phân phối thời gian đào tạo. Sau khi thiết kế xong nội dung giáo dục có thể đưa nó vào thực thi, tiếp đến là khâu đánh giá. Tuy nhiên, việc đánh giá chương trình đào tạo không phải chỉ chờ đến giai đoạn cuối cùng mà cần được thực hiện trong mọi khâu. Chẳng hạn, ngay sau khi thực thi có thể nội dung môn GDTC sẽ tự bộc lộ những nhược điểm của nó, hay qua ý kiến đóng góp của người học, người dạy có thể biết phải hoàn thiện nó như thế nào.
Sau đó khi khóa đào tạo kết thúc (thực thi xong một chu kỳ đào tạo) thì việc đánh giá, tổng kết cả một chu kỳ này phải được đề ra. Người dạy, người xây dựng và quản lý nội dung giáo dục phải luôn tự đánh giá nội dung giáo dục ở mọi khâu qua mỗi buổi học, mỗi năm, mỗi khóa học để rồi vào năm học mới kết hợp với khâu phân tích tình hình, điều kiện mới sẽ lại hoàn thiện hoặc xây dựng lại mục tiêu đào tạo. Rồi dựa trên mục tiêu đào tạo mới, tình hình mới lại thiết kế lại hoàn chỉnh hơn nội dung giáo dục. Cứ như vậy giáo dục sẽ liên tục được đào tạo và phát triển không ngừng cùng với quá trình đào tạo.
Hệ quả của quá trình đổi mới đảm bảo tính đồng bộ và lôgíc của hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, “dạy học tích cực” không tồn tại như một phương pháp độc lập, một phương pháp mới được phát hiện. Mà là sự tích hợp, phát triển theo hướng tích cực hóa người học trên nền tảng các phương pháp đã có. Có nghĩa là, tích cực hóa người học là xu thế để vận dụng và phát triển các phương pháp dạy học, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Điều đó đã khẳng định vị trí và vai trò của GDTC trong đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước - lực lượng lao động mới quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước trong thế kỷ 21; khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển TDTT trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Đối với học sinh, sinh viên, GDTC không chỉ là môn học, mà còn là nội dung, hình thức và phương tiện hoạt động trong quá trình học tập và rèn luyện tại nhà trường; là nội dung và phương thức để nhà trường các cấp triển khai các hoạt động giáo dục học sinh. GDTC trường học thực hiện chức năng giao tiếp và liên kết trong giáo dục học sinh, sinh viên, tạo ra bầu không khí thân thiết và hiểu biết lẫn nhau giữa các học sinh, giữa các nhà trường; truyền tải những giá trị chân chính của TDTT đến từng học sinh, sinh viên, thông qua đó giáo dục ở các em những tư tưởng, tình cảm và nhân cách của con
người mới xã hội chủ nghĩa; góp phần giáo dục và phát triển thị hiếu, thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên.
Cùng với xu thế đổi mới đào tạo đại học, công tác GDTC đang hướng tới góp phần nâng cao năng lực hoạt động nghề nghiệp cho sinh viên sau khi ra trường. Vì vậy, GDTC mang “tính nghề” hiện đang là hoạt động chủ đạo trong nghiên cứu về đổi mới nội dung và hình thức; GDTC không chỉ vì sức khỏe mà còn phải hướng tới mục tiêu trang bị cho người học năng lực và nhu cầu tự rèn luyện, rèn luyện suốt đời; hướng tới góp phần rèn luyện tri thức và kỹ năng phục vụ hoạt động nghề nghiệp. GDTC ở bậc đại học phải trở thành một mặt của đào tạo nghề, sản phẩm không chỉ là thể chất thuần túy, mà là một bộ phận cấu thành năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. Điều đó, đòi hỏi hệ thống nhà trường phải tạo mọi cơ hội, điều kiện để đổi mới GDTC như một bộ phận cấu thành của chương trình đào tạo nghề, mang chức năng nghề nghiệp, định hướng nghề nghiệp rõ ràng.
Chương trình GDTC được xây dựng đáp ứng xu thế đổi mới cơ chế quản lý theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học công lập là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu, tuy nhiên để phát huy cơ chế này cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa…Nội dung của tự chủ đại học.
Tự chủ của trường đại học có thể khái quát là khả năng trường được hoạt động theo cách thức mình lựa chọn để đạt được sứ mạng về mục tiêu do trường đặt ra. Các thành tố trong tự chủ đại học bao gồm: tự chủ về tổ chức, tự chủ về tài chính, tự chủ về nhân lực...
Tự chủ về tổ chức: Tại Việt Nam, cấp trường là cấp điều hành và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban
giám hiệu cùng với các đơn vị chức năng tham mưu giúp việc gồm: các phòng, khoa, trung tâm. Cấp khoa là cấp quản lý các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành trực thuộc...
Tự chủ về tài chính: Tự chủ về tài chính là trường đại học được quyền quyết định hoạt động tài chính của nhà trường bao gồm các hoạt động thu, chi, quản lý và phân phối kết quả hoạt động tài chính, huy động vốn, quản lý các quỹ chuyên dụng, quản lý tài sản, quản lý nợ phải trả của nhà trường, và các hoạt động tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Tự chủ về nhân lực: Tự chủ về tuyển sinh và đào tạo là các trường đại học được quyền quyết định các hình thức và số lượng tuyển phù hợp với điều kiện của trường và quy định của Nhà nước; mở các ngành đào tạo đại học và chuyên ngành đào tạo sau đại học đã có trong danh mục ngành đào tạo của nhà nước.
Tự chủ về đào tạo: Hoạt động đào tạo gồm các nội dung như: tuyển sinh; ngành đào tạo; Chương trình, giáo trình đào tạo; Phương pháp giảng dạy… Các trường tự quyết định chỉ tiêu đào tạo, báo cáo Bộ và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để xã hội cùng giám sát chất lượng đào tạo.
Để tăng quyền tự chủ ở các trường đại học, nâng cao năng lực đào tạo trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho việc tự chủ. Để thực hiện tự chủ, cần xây dựng bộ máy, các chuyên gia, chuyên viên thực hiện các hoạt động tham mưu cho Ban Giám hiệu về nội dung, biện pháp thực hiện, cung cấp các thông tin, các phương án lựa chọn để người lãnh đạo có thể ban hành các quyết định kịp thời, cần thiết.
Thứ hai, xây dựng cơ chế kiểm soát các hoạt động độc lập, tự chủ, thực hiện trách nhiệm của các đối tượng. Nhà trường cần đặt ra những tiêu