Các Tiêu Chí Biểu Hiện Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Ở Cấp Độ Phối Thức Thị Trường

Formatted: Centered



- Độ nhạy cảm với mức độ rủi ro thị trường (S): Mức độ rủi ro của ngân hàng được đánh giá bằng 2 chỉ tiêu cơ bản:

+ CAR (Capital Adequacy Ratio) là hệ số an toàn vốn. Chính là tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có chứa rủi ro. Theo chuẩn quốc tế CAR phải đạt được tối thiểu 9%. Tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng về tài chính mạnh, càng tạo được uy tín, sự tin cậy và yên tâm cho khách hàng.

Công thức tính CAR như sau:

Vốn tự có

CAR =

Tổng tài sản “Có” rủi ro


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

x 100


+ Chất lượng tín dụng: Thể hiện chủ yếu thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ. Nếu tỷ lệ này càng thấp cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng đó tốt, tình hình tài chính của ngân hàng đó là lành mạnh và ngược lại, nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ ngân hàng quản lý tín dụng chưa tốt, tình hình tài chính của ngân hàng chưa được quan tâm. Theo chuẩn quốc tế, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng từ 3% trở xuống được coi là an toàn và theo tiêu chuẩn Việt Nam thì tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ ở mức dưới 5% là mức an toàn chấp nhận được.

1.3.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực

Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ gắn bó với doanh nghiệp, ý thức và tác phong làm việc.

Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng của những người tham gia công tác quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng quyết định tới chất lượng và tính khả thi của việc xây dựng và thực hiện chiến lược hoạt động kinh doanh cũng như chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro của ngân hàng. Nhiều kinh nghiệm của thế giới cho thấy một đội ngũ lãnh đạo giỏi luôn là yếu tố đưa hoạt động ngân hàng phát triển.

Trình độ chuyên môn cao, thao tác nghiệp vụ thành thạo, kinh nghiệm của đội ngũ các nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm dịch



vụ ngân hàng, có thể phục vụ khách hàng chu đáo, chính xác, nhanh chóng, chất lượng công tác quản lý tốt và kiểm soát được rủi ro.

Chính sách nhân sự, đào tạo và sử dụng, đãi ngộ hợp lý sẽ giữ được cán bộ có trình độ, năng lực tận tâm phục vụ cho sự nghiệp ngân hàng đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, thu hút những người có trình độ cao đến với ngân hàng. Nguồn nhân lực có trình độ cao, có năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng chính là nguồn tài sản có giá trị của ngân hàng.

1.3.2.3. Năng lực công nghệ

Năng lực công nghệ ngân hàng thường đánh giá thông qua các tiêu chí:

- Khả năng trang bị công nghệ mới bao gồm thiết bị phần cứng, chương

trình phần mềm, nhân lực.

- Mức độ đáp ứng công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu thị trường để giữ được thị phần dịch vụ.

-Tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng.

1.3.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị

Cơ sở vật chất trang thiết bị là một yếu tố rất cơ bản góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Trong lĩnh vực ngân hàng, cơ sở vật chất, trang thiết bị bao gồm: trụ sở giao dịch, thiết bị văn phòng, quầy giao dịch, bàn ghế (cho nhân viên và khách hàng ngồi chờ), máy điều hòa, máy vi tính, máy in, máy fax, điện thoại,… cơ sở vật chất trang thiết bị ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý lựa chọn ngân hàng giao dịch của khách hàng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị mới và hiện đại phần nào phản ánh sự chuyên nghiệp, năng động và năng lực tài chính của một ngân hàng.

1.3.2.5. Năng lực quản trị, điều hành

Nhìn cách bố trí vị trí làm việc, phong cách giao tiếp, thao tác nghiệp vụ của nhân viên, người quản lý,…thì có thể đánh giá được năng lực quản lý, điều hành của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc; mục tiêu, động cơ, cam kết của Ban giám đốc, Hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao lợi



thế cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương, thưởng và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý sẽ quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng.

1.3.2.6. Văn hóa doanh nghiệp

Văn hóa doanh nghiệp là những giá trị vật chất và hệ thống tư duy, hành động của con người trong doanh nghiệp được tạo ra và hình thành phong cách chung của mỗi thành viên. Mỗi doanh nghiệp có bản sắc văn hóa riêng điều đó cho phép so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.

Ví dụ: Sacombank việc tổ chức “Chào cờ Tổ quốc vào sáng thứ hai hàng tuần”ở tất cả chi nhánh của Sacombank là một nét văn hóa doanh nghiệp với sự tham dự của lãnh đạo, nhân viên.

Văn hóa doanh nghiệp đã thực sự trở thành một yếu tố quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh. Về cơ bản, văn hóa doanh nghiệp chủ yếu mang tính vô hình, thể hiện qua hành vi, thái độ của con người trong doanh nghiệp, tác động ra bên ngoài bằng hệ thống giá trị cảm nhận. Các thành viên của doanh nghiệp hoạt động trong một khuôn khổ nền văn hóa bằng các quy định thành văn hoặc bất thành văn.

1.3.3. Các tiêu chí biểu hiện năng lực cạnh tranh của ngân hàng ở cấp độ phối thức thị trường

1.3.3.1. Chính sách sản phẩm, dịch vụ

Để nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước phù hợp hơn với xu hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại trong khu vực và trên thế giới, việc xây dựng và phát triển chính sách sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm định hướng cho quá trình phát triển, đồng thời đưa ra chính sách phát triển đối với từng nhóm khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là rất cần thiết.

Chính sách sản phẩm phải thực hiện tốt các mục tiêu như sau:

- Chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn được nâng cao nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đa dạng của khách hàng;



- Nâng cao vị thế, hình ảnh của ngân hàng;

- Tạo sự khác biệt của sản phẩm dịch vụ cung ứng, mở rộng thị phần;

- Tăng số lượng sản phẩm dịch vụ mới;

- Phát triển đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng hiện đại, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm dịch vụ cung ứng cho từng thị trường, từng nhóm khách hàng.

1.3.3.2. Chính sách giá cả sản phẩm, dịch vụ

Giá cả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và phí dịch vụ. Mức giá được công bố thường mang tính chất danh nghĩa cao vì chi phí thực tế mà khách hàng phải trả có thể khác so với giá công bố.

Ví dụ: Khi mở L/C, mức phí thực tế sẽ cao nếu tỷ lệ ký quỹ đảm bảo cho L/C cao vì khách hàng đã mất một khoản tiền lời từ việc ký quỹ trên. Chính vì vậy, mức giá mà ngân hàng áp dụng phải đem lại sự hài lòng cho khách hàng.

Do đó, định giá là công việc quan trọng trong xây dựng chiến lược kinh doanh của ngân hàng, giá cả linh hoạt, hấp dẫn là một điểm mạnh để khách hàng lựa chọn ngân hàng, củng cố và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Chính sách giá phải thực hiện tốt các mục tiêu như: thu hút khách hàng mới và tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng; tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.

1.3.3.3. Chính sách phân phối

Trong lĩnh vực ngân hàng, kênh phân phối được đánh giá thông qua kênh phân phối nội bộ thuộc sở hữu ngân hàng và kênh phân phối bên ngoài. Để có hệ thống kênh phân phối sản phẩm của ngân hàng hợp lý, phải đảm bảo yêu cầu sau:

- Thuận tiện cho khách hàng trong quá trình giao dịch, tiếp cận với ngân hàng;

- Phù hợp với phạm vi, qui mô hoạt động của ngân hàng cả hiện tại và trong

tương lai;

- Tạo được sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng;

- Phù hợp với mô hình tổ chức của ngân hàng.

Muốn vậy, ngân hàng cần lựa chọn hệ thống cung ứng thích hợp nhất, trên cơ sở phân tích các lợi thế của ngân hàng, khả năng cung ứng sản phẩm dịch vụ của



ngân hàng, mức độ cạnh tranh và đặc điểm của khách hàng. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa hệ thống phân phối truyền thống và hệ thống phân phối ngân hàng hiện đại trong cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày nay.

1.3.3.4. Chính sách xúc tiến hỗn hợp

Chính sách xúc tiến hỗn hợp bao gồm nhiều hoạt động, có thể tổ chức tuần tự hoặc tổ chức song song để các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng đến được khách hàng qua nhiều kênh phân phối, cụ thể như:

- Quảng cáo: Sự phát triển nhanh, đa dạng và phủ khắp cả mọi miền của đất nước của các phương tiện truyền thông đã được các ngân hàng sử dụng làm công cụ quảng bá hình ảnh, thương hiệu, danh tiếng của ngân hàng, như giới thiệu các gói sản phẩm dịch vụ cùng với chất lượng, tiện ích đi kèm của ngân hàng cho khách hàng; các thông tin, chỉ dẫn cách tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Ngày nay, quảng cáo đòi hỏi phải đạt được mục đích thu hút khách hàng đến với sản phẩm của mình ngày càng nhiều hơn, hỗ trợ đắc lực cho sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Với yêu cầu đó việc quảng cáo phải thực hiện theo nguyên tắc A.I.D.A, là 4 chữ đầu của các từ:

+ A - Attention (tạo ra sự chú ý);

+ I - Interest (làm cho thích thú);

+ D - Desire (Gây nên sự ham muốn);

+ A - Action (Dẫn đến hành động mua hàng).

- Giao dịch cá nhân: Giao dịch cá nhân là những giao dịch được thực hiện giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng như việc cung ứng các dịch vụ thông qua cuộc gặp gỡ đối thoại, thuyết phục, trao đổi qua điện thoại. Đây là quá trình giao tiếp phức tạp, chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố như quan hệ cá nhân, bản chất của sản phẩm dịch vụ, nhu cầu mong muốn của khách hàng và các giai đoạn của quy trình giao dịch. Trong quan hệ với khách hàng, giao dịch viên, nhân viên ngân hàng cần có những kỹ năng cơ bản, kinh nghiệm nghề nghiệp thì mới có thể dễ dàng thuyết phục, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, giữ chân được khách hàng, đồng thời qua khách hàng truyền thống, giới thiệu, thu hút được thêm nhiều khách hàng mới.



- Tuyên truyền hoạt động của ngân hàng: Việc cho thành lập quá nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng nhân dân đã làm cho thị trường tiền tệ có lúc nóng lên, có lúc hạ xuống thấp đã làm cho khách hàng lúng túng, không biết ngân hàng nào đáng tin cậy. Trước tình hình này, các ngân hàng tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá tình hình hoạt động của ngân hàng mình dưới nhiều hình thức như: chính sách xúc tiến hỗn hợp của Marketing ngân hàng, tham gia vào các hoạt động xã hội

- từ thiện,...tạo niềm tin, uy tín với khách hàng

- Hoạt động khuyến mãi và chăm sóc khách hàng:

+ Khuyến mãi có tác dụng khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ hơn và thu hút khách hàng mới, đồng thời khuyến khích lực lượng phân phối đẩy mạnh các hoạt động của ngân hàng.

+ Chăm sóc khách hàng là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn được phục vụ và làm những việc cần thiết để giữ các khách hàng mà bạn đang có, qua đó thu hút thêm khách hàng mới.

+ Chăm sóc khách hàng là một phần quan trọng của marketing, góp phần tạo nên sự thành công của một ngân hàng. Chăm sóc khách hàng đồng nghĩa với việc làm khách hàng thỏa mãn, khi đó khách hàng sẽ trung thành với ngân hàng.

- Marketing trực tiếp: Các phương thức của marketing trực tiếp bao gồm: gửi thư, gửi tờ rơi đến tận từng khách hàng; gửi lời giới thiệu về ngân hàng và sản phẩm dịch vụ mới tới từng khách hàng; giải đáp trên truyền thanh, truyền hình, điện thoại, hội nghị khách hàng

- Các hoạt động tài trợ: Hoạt động tài trợ vì mục đích xã hội hơn là mục đích kinh tế nhưng tạo được sự tin tưởng, gây dựng hình ảnh và tạo sự hiểu biết sâu rộng về ngân hàng; góp phần bảo đảm sự thành công của hoạt động marketing ngân hàng nói chung và chính sách xúc tiến hỗn hợp nói riêng sau này.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

1.4.1. Các yếu tố thuộc môi trường ngành

Michael Porter đã đưa ra mô hình 5 lực lượng cạnh tranh trong ngành ngân hàng bao gồm:



- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Là các đơn vị, tổ chức đã xuất hiện trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Khả năng cạnh tranh của đối thủ này được đánh giá qua việc rào cản ngăn chặn việc gia nhập vào ngành, có nghĩa là doanh nghiệp phải tốn kém nhiều hay ít để tham gia vào ngành kinh doanh. Nếu phí tổn gia nhập ngành càng cao, rào cản ngăn chận gia nhập sẽ càng cao và ngược lại. Các rào cản chủ yếu để ngăn chặn sự gia nhập ngành hoạt động là: tính kinh tế nhờ quy mô; sự khác biệt hoá sản phẩm; nhận biết thương hiệu; khả năng tiếp cận kênh phân phối; mức vốn đầu tư cần có; lợi thế chi phí tuyệt đối; chính sách của nhà nước.

- Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Là các định chế tài chính đã có vị thế chắc chắn trên thị trường cùng ngành kinh doanh. Nếu mức cạnh tranh giữa họ càng cao, giá bán sẽ càng giảm, đưa đến mức lợi nhuận giảm. Do đó, cạnh tranh về giá bán sản phẩm dịch vụ là nguy cơ đối với các ngân hàng. Thông thường cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại được quyết định bởi các yếu tố sau: số lượng và kết cấu các đối thủ cạnh tranh; tốc độ tăng trưởng của ngành; những khác biệt trong sản phẩm; sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh; tính đa năng của các đối thủ cạnh tranh; hàng rào cản trở rút lui.

- Sức ép của nhà cung ứng: Nhà cung ứng trong lĩnh vực ngân hàng chính là những khách hàng (cá nhân, tổ chức) có nguồn vốn dồi dào có nhu cầu đầu tư. Các nhà cung ứng có thế lực mạnh khi họ có những điều kiện sau: nguồn vốn trong xã hội bị giảm bởi những hành vi khác như đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản; khi có nhiều định chế tài chính với các mức giá hấp dẫn khác nhau đem lại nhiều khả năng lựa chọn đối với nhà cung ứng.

- Sức ép của khách hàng: Khách hàng là từ chỉ chung cá nhân hay tổ chức chấp nhận các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Khi khách hàng không bị ràng buộc và có nhiều quyền chọn lựa giữa sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng khác nhau thì sức ép của khách hàng càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh giữa các n gân hàng càng cao.

- Sự xuất hiện của các sản phẩm dịch vụ thay thế: Những sản phẩm dịch vụ



thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong cùng ngành. Sự sẵn có của các sản phẩm dịch vụ thay thế trên thị trường là mối đe dọa trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các ngân hàng.

Tóm lại, tích hợp những chỉ tiêu và nhân tố trên chính là xác định tổng nội lực của một NHTM trên những mục tiêu xác định với những đối thủ cạnh tranh xác định, từ đó giúp chúng ta có thể nhận dạng và đánh giá được đúng thực chất năng lực cạnh tranh của một ngân hàng cụ thể; đồng thời qua đó xác định những nhân tố quyết định thành công để tập trung nỗ lực nhằm duy trì, nâng cao hay phát hiện những yếu kém cần phải khắc phục để đạt đến được năng lực cạnh tranh bền vững.

Michael Porter đã đưa ra mô hình nguồn lực cạnh tranh sau:


Nguồn Michael E Porter trang 35 Lợi thế cạnh tranh Sơ đồ 1 2 Năm nguồn lực cạnh 1

(Nguồn: Michael E. Porter, trang 35 - Lợi thế cạnh tranh)

Sơ đồ 1.2. Năm nguồn lực cạnh tranh quyết định khả năng sinh lợi của ngành

1.4.2. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài

- Tác động của môi trường chính trị - pháp luật : Hệ thống luật pháp tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của NHTM. Luật quy định những điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để một NHTM được phép kinh doanh,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/05/2023