Đầu Tư Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


cảm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tài chính của sản phẩm nhưng chịu sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Do đó, cạnh tranh bằng lãi suất ngày càng hạn chế, thay vào đó là các hình thức biến tấu khác, nhằm mang lại cho khách hàng các lợi ích khác thay thế cho lãi suất. Những hình thức cạnh tranh đa dạng, phong phú đó đòi hỏi ngân hàng phải có sự nghiên cứu, đầu tư và xuất phát từ nội lực của ngân hàng.

Thứ tư, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại luôn phải nằm trong khuôn khổ, quy định và sự giám sát thường xuyên của NHNN thông qua hệ thống luật pháp và các chính sách từng thời kỳ. Hiện nay, sự cạnh tranh này còn phải nằm trong khuôn khổ những hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Điều này đòi hỏi các NHTM trong nỗ lực dành thị phần và lợi nhuận, phải luôn luôn tuân thủ luật pháp, định hướng chính sách của Nhà nước và chú ý những thông lệ quốc tế. Chính vì thế, cạnh tranh bằng việc khai thác thế mạnh, khác biệt hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm càng có ý nghĩa tích cực hơn trong cạnh tranh ngân hàng. Cạnh tranh bằng giá cả, lãi suất không những không có nhiều tác động tích cực mà còn có nguy cơ vi phạm quy định của Nhà nước và hiệp ước quốc tế.

1.1.2.2. Các công cụ cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng [35]

Với những đặc thù trong lĩnh vực kinh doanh, đồng thời tùy vào chiến lược cạnh tranh trong từng giai đoạn, tùy vào năng lực cạnh tranh hiện tại của mình mà mỗi ngân hàng tập trung áp dụng một số hoặc tất cả các công cụ cạnh tranh sau:

(1) Cạnh tranh bằng giá sản phẩm, dịch vụ

Cạnh tranh bằng giá là hình thức cạnh tranh khá phổ biến và hiệu quả vì tác động trực tiếp vào lợi ích tài chính của khách hàng, do đó giúp ngân hàng nhanh chóng đạt mục tiêu về thị phần và doanh số. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức cạnh tranh này là thường khiến ngân hàng phải chấp nhận mức lợi nhuận giảm đi và dễ dẫn đến những cuộc chạy đua về lãi suất giữa các ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế. Theo đuổi cuộc chạy đua về lãi suất đó, ngân hàng thường phải trả giá bằng chi phí tăng đột biến, đối mặt với nguy cơ rủi ro về lãi suất, rủi ro thanh


khoản. Cạnh tranh bằng giá là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng lớn, có tiềm lực tài chính mạnh.

Cạnh tranh bằng giá có thể đạt được thông qua tăng cường tiềm lực tài chính; cải tiến công nghệ để giảm chi phí vận hành, chi phí nhân lực, chi phí phân phối; hợp tác lâu dài với các đối tác cung cấp đầu vào.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

(2) Cạnh tranh bằng sản phẩm

Cạnh tranh bằng sản phẩm bao hàm sự đa dạng của sản phẩm, sự khác biệt hóa của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh, tính năng và giá trị sản phẩm mang lại cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu về hiệu quả tài chính và sự hài lòng của khách hàng.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 3

Cạnh tranh bằng sản phẩm là hình thức cạnh tranh đa dạng, tinh vi và được đánh già là hiệu quả, bền vững nhất, thể hiện qua các nội dung:

- Đa dạng hóa sản phẩm: kinh tế càng phát triển, nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng. Các đối tượng khách hàng khác nhau lại có nhu cầu về sản phẩm khác nhau. Do đó, các ngân hàng ngày càng triển khai nhiều sản phẩm hơn nhằm thỏa mãn tối đa các nhu cầu khách hàng, thu hút nhiều đối tượng khách hàng.

- Khác biệt hóa sản phẩm: Khi các ngân hàng đều cố gắng đưa ra một danh mục các sản phẩm dịch vụ đa dạng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng thì việc khác biệt hóa sản phẩm là một chiến lược cạnh tranh sáng suốt và hiệu quả. Khác biệt hóa sản phẩm tạo dấu ấn riêng cho sản phẩm của mỗi ngân hàng, thậm chí ngân hàng có thể tạo khác biệt đến từng khách hàng thông qua cách thức nhận biết nhu cầu khách hàng, cách thức tiếp cận và phục vụ chăm sóc khách hàng. Khác biệt hóa sản phẩm là cách thức hiệu quả nhất để khuyến khích sự trung thành của khách hàng. Cạnh tranh bằng khác biệt hóa sản phẩm thường đi cùng với chiến lược khách hàng trọng tâm, vì khi hướng vào một nhóm đối tượng khách hàng nhất định, việc tạo ra các khác biệt cho sản phẩm sẽ thỏa mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng.

- Gia tăng tính năng, tiện ích, chất lượng của sản phẩm: Nhằm tạo cho khách hàng thấy thỏa mãn, yên tâm, hài lòng khi sử dụng dịch vụ, ngân hàng không


ngừng cải tạo chất lượng dịch vụ để dịch vụ tốt hơn, nhanh hơn, an toàn hơn và tạo thêm các giá trị gia tăng cho sản phẩm. Khách hàng khi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ thường xuyên so sánh sản phẩm giữa các ngân hàng. Việc tạo ra các sản phẩm thuận tiện, an toàn, mang lại nhiều lợi ích hơn so với sản phẩm của các ngân hàng khác sẽ giúp ngân hàng thu hút khách hàng, do đó gia tăng thị phần và lợi nhuận.

- Gia tăng chất lượng phục vụ, chăm sóc khách hàng: bản thân các sản phẩm ngân hàng là dịch vụ, do đó chất lượng phục vụ, chăm sóc khách hàng là một phần của sản phẩm. Chất lượng phục vụ thể hiện ở thái độ, tác phong, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bán hàng của nhân viên ngân hàng.

Để có thể cạnh tranh thông qua sản phẩm, mỗi ngân hàng phải đầu tư cho nâng cấp công nghệ, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp.

(3) Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối

Ngân hàng nào có hệ thống mạng lưới càng rộng, tập trung ở những địa bàn hợp lý càng có khả năng thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, gia tăng lợi nhuận.

Ngày nay, hệ thống phân phối của ngân hàng không chỉ dừng ở hệ thống mạng lưới truyền thống là các chi nhánh, phòng giao dịch với trụ sở và nhân lực, trang thiết bị máy móc, mà hệ thống phân phối của ngân hàng còn được triển khai thông qua các kênh hiện đại, thuận tiện và tiết kiệm chi phí dựa trên công nghệ hiện đại như hệ thống giao dịch qua internet, điện thoại, fax, hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) hay các điểm thanh toán thẻ ngân hàng (POS).

Muốn cạnh tranh thông qua hệ thống phân phối đạt hiệu quả, ngân hàng phải tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng, thuê mua trụ trở, điểm giao dịch, mua sắm máy móc trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, đào tạo đội ngũ nhân lực để có thể vận hành tại các điểm giao dịch. Yếu tố đặc biệt quan trọng, đối với cả việc phát triển hệ thống phân phối là công nghệ phải tiên tiến, đảm bảo giao dịch thông suốt, thông tin cập nhật và an toàn.

(4) Cạnh tranh bằng thương hiệu


Với những ngân hàng đã có vị thế, uy tín nhất định trên thị trường, cạnh tranh bằng thương hiệu cho phép ngân hàng duy trì khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới thông qua việc đánh vào lòng tin, tâm lý của khách hàng. Khách hàng thường tin tưởng sản phẩm của những doanh nghiệp có tên tuổi, nổi tiếng. Cạnh tranh bằng thương hiệu tiến hành bằng việc xây dựng những sản phẩm chủ chốt, đặc thù, xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu, quảng bá sản phẩm, thương hiệu dưới nhiều hình thức, tham gia các sự kiện truyền thông. Cạnh tranh bằng thương hiệu cũng được tiến hành thông qua việc ngân hàng mở rộng tầm ảnh hưởng, phát triển lĩnh vực hoạt động nhằm khẳng định vị thế, thương hiệu.

Cạnh tranh bằng thương hiệu đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng kế hoạch phát triển thương hiệu đồng bộ và chuyên nghiệp, xuất phát từ nội lực nhằm củng cố một thương hiệu vững mạnh, uy tín chứ không phải bằng các biện pháp chỉ nhằm đánh bóng tên tuổi.

(5) Cạnh tranh bằng các biện pháp xúc tiến bán hàng

Xúc tiến bán hàng bao gồm các biện pháp tiếp cận khách hàng, các chương trình ưu đãi, khuyến mãi, hỗ trợ chăm sóc khách hàng,…Bên cạnh giá cả và chất lượng sản phẩm, xúc tiến bán hàng là công cụ cạnh tranh tác động trực tiếp vào lợi ích của khách hàng. Xúc tiến bán hàng thường đi kèm với mỗi đợt giới thiệu sản phẩm mới hoặc gắn với các sự kiện quan trọng như lễ, tết, …nhằm tạo thêm sự hấp dẫn cho sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.

Xúc tiến bán hàng gắn với những chi phí không nhỏ và để nó thực sự trở thành một công cụ cạnh tranh hiệu quả, các ngân hàng cần phải có sự nghiên cứu, thăm dò thị trường để xây dựng các chính sách hấp dẫn, phù hợp với sở thích, tâm lý khách hàng.

1.1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại [6], [33], [34], [38], [44]

Trên thế giới, lĩnh vực ngân hàng chưa có một phương pháp luận chung để đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng được kiểm nghiệm và chứng minh. Trong khi đó, đánh giá năng lực cạnh tranh là một việc làm cần thiết để đánh giá


hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời phát hiện các vấn đề cần giải quyết, kịp thời đưa ra các chính sách thích hợp để đảm bảo thành công trong kinh doanh.

Do đó, để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, cần sử dụng một hệ thống bao gồm các chỉ tiêu định lượng và định tính theo các nhóm sau:

(1) Nhóm chỉ tiêu về năng lực tài chính của ngân hàng

- Quy mô vốn điều lệ: vốn đóng góp của các thành viên, cổ đông và được ghi vào điều lệ ngân hàng,

- Quy mô vốn chủ sở hữu: nguồn vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp ban đầu và được bổ sung trong quá trình kinh doanh,

- Tổng tài sản: tổng các khoản mục tài sản hình thành từ quá trình sử dụng vốn, phản ánh quy mô hoạt động của ngân hàng, bao gồm: ngân quỹ, chứng khoán, tín dụng, tài sản ủy thác, hùn vốn, tài sản cố định, các tài sản ngoại bảng khác,

- Các chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời:

+ Lợi nhuận sau thuế = (Thu từ lãi – Chi trả lãi) + (Thu khác – Chi khác) – Thuế thu nhập (1.1)

+ Lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA) = Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản

(1.2)

+ Lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ

sở hữu (1.3)

- Các chỉ tiêu phản ánh khả năng phòng ngừa chống đỡ rủi ro:

+ Hệ số an toàn vốn (CAR) = (vốn cấp I + vốn cấp II)/Tài sản có rủi ro (1.4)

+ Tỷ lệ nợ xấu = nợ xấu/ Tổng dư nợ (1.5)

(2) Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động của ngân hàng

- Doanh số các sản phẩm (huy động, tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, thẻ,…),

- Thị phần của các sản phẩm (huy động, tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, thẻ,…),

- Danh mục sản phẩm phản ánh sự đa dạng và khả năng phát triển sản phẩm,


- Chất lượng, giá cả sản phẩm.

(3) Năng lực quản trị điều hành

Đây là tiêu chí định tính, phản ánh mức độ chi phối và khả năng giám sát của ban lãnh đạo; khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước những diễn biến thị trường; chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chính sách và quy trình kinh doanh, quy trình quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ; cơ cấu tổ chức; mức độ phối hợp giữa các bộ phận và khả năng thích nghi, thay đổi của cơ cấu.

(4) Năng lực công nghệ: thể hiện qua khả năng đổi mới công nghệ; mức độ đáp ứng của công nghệ đối với nhu cầu thị trường; tỷ lệ nghiệp vụ được xử lý bằng công nghệ hiện đại, hỗ trợ phát triển sản phẩm, kênh phân phối, quản lý,…

(5) Năng lực đội ngũ cán bộ: thể hiện qua quy mô, trình độ, số lượng cán bộ được đào tạo tại ngân hàng; tính chuyên nghiệp trong tác phong làm việc, thái độ phục vụ, kỹ năng bán hàng; tính hợp lý, hiệu quả của cơ cấu lao động.

(6) Năng lực của hệ thống kênh phân phối:

Theo phương thức tiếp cận khách hàng, hệ thống phân phối của ngân hàng chia thành kênh phân phối truyền thống (hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch thực hiện giao dịch trực tiếp với khách hàng) và kênh phân phối hiện đại (giao dịch với khách hàng qua các kênh mang tính tự động, không cần trụ sở và nhân viên phục vụ).

Năng lực hệ thống phân phối thể hiện qua: số lượng các chi nhánh, điểm giao dịch, đơn vị trực thuộc; tính hợp lý của sự phân bổ hệ thống phân phối; quản lý, giám sát hoạt động chi nhánh.

1.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại


1.2.1. Khái niệm và vai trò của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại [6], [12], [36]

Đầu tư hiểu theo nghĩa chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.


Đầu tư là một hoạt động cơ bản của mỗi doanh nghiệp. Đầu tư trong doanh nghiệp chính là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại nhằm duy trì, mở rộng sản xuất, tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại nhằm tăng thêm những tài sản của doanh nghiệp, duy trì và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời sống của các thành viên trong doanh nghiệp, tăng cường hiệu quả kinh doanh [36].

Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển, tùy vào nguồn lực, doanh nghiệp thực hiện những hoạt động đầu tư hướng vào các mục đích khác nhau (duy trì sản xuất, mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh,…), đầu tư vào các đối tượng khác nhau (tài sản cố định, nguồn nhân lực, dự trữ, tài sản vô hình,…).

Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hình thành đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị công nghệ, máy móc kỹ thuật, nghiên cứu sản phẩm, dịch vụ sẽ cung ứng, tạo lập và tổ chức nguồn nhân lực,… Đó chính là những hoạt động đầu tư phát triển nền móng đầu tiên để tạo dựng doanh nghiệp.

Trong quá trình hoạt động, bên cạnh những hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường, phải tiến hành những hoạt động để duy trì hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, tài sản sẵn có, và quan trọng hơn nữa là phát triển chúng ở mức độ cao hơn, cải tiến sản phẩm, dịch vụ phù hợp với điều kiện thị trường. Đây cũng chính là những hoạt động đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm và xây dựng chiến lược, kế hoạch phù hợp với yêu cầu của thị trường và điều kiện của bản thân doanh nghiệp. Đó chính là những hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Giống như các doanh nghiệp khác, ngân hàng phải thường xuyên tiến hành các hoạt động đầu tư. Trong môi trường cạnh tranh, để kinh doanh đạt hiệu quả, yêu cầu đặt ra với mỗi ngân hàng phải liên tục có những sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu ngày một cao và đa dạng của khách hàng, yêu cầu phải cải tiến chất


lượng phục vụ, phải nâng cao năng lực quản trị điều hành,…Những điều đó chỉ có thể đạt được thông qua đầu tư. Đó chính là những hoạt động đầu tư nhằm giúp ngân hàng có được năng lực cạnh tranh cao hơn.

Ngân hàng tiến hành nhiều hoạt động đầu tư, nhưng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phải tác động đến những nhân tố giúp cho ngân hàng đạt được những lợi thế cao hơn ngân hàng khác, chiến thắng trong việc chiếm lĩnh thị phần, doanh số, lợi nhuận. Do đó, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phải mang lại những kết quả là tiềm lực tài chính vững mạnh hơn, năng lực hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiệu quả hơn, năng lực công nghệ, năng lực quản trị điều hành, năng lực đội ngũ cán bộ,…được nâng cao hơn.

Tùy vào từng giai đoạn, NHTM có các mục tiêu cạnh tranh khác nhau. Ở giai đoạn thâm nhập thị trường, NHTM có xu hướng đạt mục tiêu gia tăng thị phần. Ở giai đoạn phát triển, NHTM thường hướng đến mục tiêu gia tăng lợi nhuận hoặc chiếm lĩnh thị phần (nắm giữ thị phần chủ chốt) hoặc hướng đến mục tiêu củng cố thương hiệu. Tùy thuộc vào mục tiêu từng giai đoạn, NHTM có thể sử dụng các công cụ cạnh tranh khác nhau, có thể là giá cả, kênh phân phối, chất lượng sản phẩm dịch vụ hoặc qua công cụ khuếch trương, quảng bá và ở các mức độ khác nhau, tính chất khác nhau. Ví dụ cùng là đầu tư cho hệ thống kênh phân phối nhưng tùy từng mục tiêu, tùy từng giai đoạn, ngân hàng có thể chỉ là đầu tư mở rộng mạng lưới nhưng cũng có thể ngân hàng không đầu tư mở rộng mà sẽ tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cấp cho hệ thống kênh phân phối trở nên hiện đại hơn, thuận tiện hơn, hiệu quả hơn. Và như vậy, năng lực cạnh tranh của ngân hàng thông qua kênh phân phối đã được cải thiện để giúp cho ngân hàng tiếp cận khách hàng tốt hơn, thâm nhập thị trường sâu hơn.

Dựa trên mục đích mà hoạt động đầu tư hướng đến, có thể rút ra khái niệm về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại NHTM:

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại NHTM là việc ngân hàng sử dụng các nguồn lực ở hiện tại (tiền và các nguồn lực khác) để tiến hành các hoạt động nhằm liên tục tăng cường và cải thiện những lợi thế cạnh tranh của mình.


Vai trò của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các NHTM

Mỗi ngân hàng khi đi vào hoạt động, muốn tồn tại và phát triển phải tạo ra cho mình những lợi thế cạnh tranh nhất định. Để phản ứng lại, các ngân hàng khác cũng sẽ cố gắng tạo ra những lợi thế tương tự hoặc tốt hơn, đặc biệt trong điều kiện công nghệ luôn luôn có những bước phát triển mới. Khi đó, nếu không có những hoạt động nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh, ngân hàng sẽ khó có thể tồn tại.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giúp cải thiện tiềm lực tài chính của ngân hàng vì khi năng lực cạnh tranh nâng lên, ngân hàng sẽ thu hút khách hàng nhiều hơn, do đó lợi nhuận mang lại ngày cao hơn, càng có điều kiện bổ sung vốn.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giúp ngân hàng cải thiện năng lực công nghệ, năng lực hoạt động thông qua việc đầu tư cải tiến công nghệ, nghiên cứu sản phẩm, hệ thống mạng lưới, các biện pháp khuếch trương thương hiệu.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giúp ngân hàng cải thiện năng lực quản trị điều hành thông qua việc đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản lý, đầu tư nghiên cứu quy trình quản lý rủi ro, quy trình nghiệp vụ và mô hình tổ chức,…

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giúp ngân hàng cải thiện chất lượng đội ngũ cán bộ thông qua đào tạo, nâng cao chất lượng môi trường làm viêc, …

1.2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại

Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt là tài chính tiền tệ và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh hướng vào những nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh nên ngoài những đặc điểm như các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nói chung, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngân hàng còn mang những đặc điểm riêng:

Thứ nhất, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong NHTM cần sử dụng một lượng vốn lớn. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thể hiện ở nhiều yếu tố, do đó muốn nâng cao năng lực cạnh tranh phải tác động tích cực vào các yếu tố như cơ sở hạ tầng khang trang, hệ thống công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ với quy mô


lớn, tiêu chuẩn cao,… đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Chính vì vậy, huy động vốn cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là vấn đề trọng tâm đối với ngân hàng. Ngân hàng phải bỏ ra những chi phí lớn để có được nguồn vốn này. Không chỉ huy động vốn mà quá trình sử dụng vốn (xây dựng cơ cấu sử dụng vốn, quản lý quá trình sử dụng vốn) cũng là những công việc hết sức quan trọng đối với ngân hàng để đầu tư mang lại hiệu quả mong muốn.

Thứ hai, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngân hàng diễn ra khá thường xuyên do năng lực cạnh tranh là một yếu tố động, đòi hỏi phải được duy trì và quan trọng hơn là phải được liên tục tăng cường. Trong điều kiện khoa học công nghệ luôn có những bước tiến mới, một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh trong hiện tại không có nghĩa là sẽ tiếp tục giữ được vị thế của mình nếu ngân hàng không có những biện pháp để liên tục tăng cường các lợi thế đó và tạo ra các lợi thế mới. Do đó, một ngân hàng mới đi vào hoạt động hay một ngân hàng đã hoạt động ổn định lâu dài đều phải thường xuyên tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Với đặc trưng là cung cấp dịch vụ tài chính cho các cá nhân và doanh nghiệp khác, ngân hàng luôn phải đa dạng hóa và cải tiến các sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu hết sức phong phú và luôn luôn phát triển của khách hàng.

Thứ ba, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các NHTM bao gồm nhiều nội dung nhưng đòi hỏi phải có cơ cấu hợp lý tùy thuộc vào chiến lược cạnh tranh, công cụ cạnh tranh đưa ra trong chiến lược. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng có được từ nhiều nhân tố: tiềm lực tài chính, tiềm lực công nghệ, năng lực quản trị điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ,…Đồng thời, để có thể cạnh tranh bằng giá, bằng chất lượng sản phẩm, bằng hệ thống phân phối, khuyến mại hay thương hiệu, ngân hàng phải cải tiến công nghệ, mở rộng mạng lưới, phải nghiên cứu phát triển sản phẩm,…nghĩa là phải có một sự đầu tư tổng thể, tác động đến nhiều mặt.

Tuy nhiên, tùy vào chiến lược cạnh tranh, công cụ cạnh tranh áp dụng trong mỗi giai đoạn mà mỗi ngân hàng có sự chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, tạo nên cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư là một trong những nhân tố quyết định tính


hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, là một nội dung các nhà hoạch định chiến lược cạnh tranh, chiến lược đầu tư phải quan tâm hàng đầu.

Thứ tư, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài: môi trường pháp lý, các quy định của nhà nước liên quan đến chính sách tài chính tiền tệ; sự phát triển của kinh tế xã hội; trình độ và mức sống của người dân, thói quen tập quán của dân cư; lịch sử, văn hoá; đối thủ cạnh tranh….Các nhân tố này tác động đến việc ngân hàng lựa chọn đầu tư vào những hạng mục nào, mức độ ra sao, nó tác động tích cực hay tiêu cực đến hiệu quả đầu tư của ngân hàng. Do đó, khi tiến hành các hoạt động đầu tư, ngân hàng phải xem xét, đánh giá và dự tính các nhân tố ảnh hưởng này.Dự báo giúp ngân hàng chủ động đối phó với những biến động của các nhân tố có thể làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mình.

Thứ năm, giống như các hoạt động đầu tư khác, mỗi hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngân hàng diễn ra theo tiến trình và trong một khoảng thời gian nhất định, phụ thuộc vào quy mô, tính chất đầu tư. Chính vì vậy, quản trị thời gian, tiến độ, kế hoạch giúp hoạt động đầu tư trong ngân hàng được kiểm soát và tác động tích cực nhất đến năng lực cạnh tranh.

Với những đặc điểm như vậy, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngân hàng đòi hỏi phải được quản trị chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Việc quản trị phải được tiến hành ngay từ khi xây dựng chiến lược đầu tư cho đến khi thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả của đầu tư.

1.2.3. Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các ngân hàng thương mại

Ngân hàng tiến hành các hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở chiến lược cạnh tranh, các công cụ cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh được xác định tùy thuộc vào từng giai đoạn. Mỗi một công cụ cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh không chỉ chịu tác động của một hoạt động đầu tư mà chịu tác động của nhiều hoạt động đầu tư. Mặt khác, mỗi hoạt động đầu tư không chỉ tác động đến một lợi thế cạnh tranh, một công cụ cạnh tranh mà có thể tác động đến nhiều lợi thế, công cụ


cạnh tranh. Do đó, không thể tách bạch hoạt động đầu tư nào cho công cụ cạnh tranh nào, cho lợi thế cạnh tranh nào. Mỗi công cụ cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh đều được hình thành từ tổng thể các nội dung đầu tư sau:

(1) Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (không bao gồm hoạt động đầu tư cho công nghệ) là những hoạt động sử dụng vốn để mở mang, nâng cấp cơ sở vật chất gồm: mua, thuê, xây dựng, sửa chữa trụ sở làm việc, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc,... Các hoạt động đầu tư này tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng qua việc góp phần mở rộng hệ thống phân phối, tạo cơ sở vật chất, diện mạo khang trang cho ngân hàng, tạo môi trường làm việc cho cán bộ, tạo địa điểm giao dịch thuận tiện, hiện đại cho khách hàng.

(2) Đầu tư nâng cao trình độ công nghệ bao gồm các hoạt động sử dụng vốn nhằm ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh doanh như cải tiến công nghệ, mua mới, nhận chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ, mua sắm trang bị máy móc, trang thiết bị đi kèm…Hoạt động đầu tư này tác động nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thông qua việc làm nền tảng tạo ra các sản phẩm hiện đại, hỗ trợ phát triển kênh phân phối, hỗ trợ công tác quản trị điều hành,…

(3) Đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực: là việc sử dụng vốn để tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích người lao động đóng góp tốt hơn kiến thức, kỹ năng cho công việc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc.

(4) Đầu tư phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng:

Đầu tư phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng là một hoạt động quan trọng của ngân hàng nhằm đưa hình ảnh ngân hàng đến với công chúng, hỗ trợ bán hàng hiệu quả. Xúc tiến bán hàng là những hoạt động hỗ trợ bán hàng bao gồm các chương trình khuyến mãi, tổ chức tiếp cận khách hàng và giới thiệu sản phẩm. Hoạt động này bao gồm:

- Đầu tư cho đổi mới, khuếch trương hệ thống nhận diện thương hiệu (tên thương hiệu, logo, màu sắc, website, đồng phục, cách bài trí văn phòng trụ sở, chi nhánh,…),

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí