Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá, Nhân Tố Ảnh Hưởng Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


Tổng Giám Đốc, Kế toán trưởng và các bộ máy chuyên môn nghiệp vụ. Các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Ngân hàng Chính sách xã hội…

- Ngân hàng Thương mại cổ phẩn

Khái niệm: Ngân hàng được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Vốn do các cổ đông đóng góp, trong đó có các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác và các cá nhân cùng góp vốn theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Loại hình ngân hàng này hiện tại nhỏ hơn ngân hàng thương mại nhà nước về quy mô nhưng về số lượng thì nhiều hơn và ngày càng tỏ ra năng động và nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm mục tiêu hội nhập. Các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay gồm: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Quân Đội, Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam, Ngân hàng Á Châu, ...

2.1.3. Các đặc điểm của ngân hàng thương mại

- Ngân hàng thương mại là loại Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ về dịch vụ Ngân hàng với mục tiêu lợi nhuận

- Sự phát triển trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ

- Ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh hàng hóa đặc biệt và có điều kiện.

- Ngân hàng thương mại là loại hình hoạt động kinh doanh chứa nhiềm tiềm ẩn rủi ro

Với những đặc điểm chuyên biệt của mình, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng có những đặc thù nhất định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

Thứ nhất, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành nghề, các mặt kinh tế, tiêu dùng của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó:

Ngân hàng thương mại cần ban hành xây dựng triển khai hệ thống sản phẩm đa dạng tiện ích, mạng lưới chi nhánh rộng và kết nối với nhau để phục vụ mọi đối tượng khách hàng và ở bất kỳ vị trí địa lý khu vực nào.

Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế - 6


Ngân hàng thương mại phải xây dựng được hình ảnh thương hiệu uy tín, tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng vì bất kỳ một sự tai tiếng không lành mạnh nào của NHTM cũng có thể dẫn đến sự mất lòng tin của nhiều chủ thể có liên quan.

Thứ hai, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ có liên quan đến kinh doanh tiền tệ. Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm nên cần đáp ứng tiêu chí nhất định:

Năng lực, chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất thể hiện quá trình cung cấp chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải tạo được lòng tin với khách hàng bằng kiến thức trình độ chuyên môn, am hiểu nghiệp vụ, phong cách chuyên nghiệp, khả năng tư vấn nắm bắt tâm lý nhu cầu khách hàng.

Sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải tiện ích, nhanh chóng, chính xác, bảo mật và quan trọng hơn nữa là phải có tính an toàn cao. Dẫn tới đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại, với số lượng thông tin, dữ liệu của khách hàng rất cấp thiết và lưu lượng rất nhiều nên yêu cầu NHTM phải có hệ thống lưu trữ chính xác, quản lý toàn bộ các thông tin này một cách an toàn đầy đủ mà vẫn có khả năng chiết xuất dữ liệu lấy thông tin một cách thuận tiện dễ dàng.

Ngoài ra, do dịch vụ kinh doanh tiền tệ ngân hàng có tính nhạy cảm nên để tạo được lòng tin của khách hàng lựa chọn sản phẩm sử dụng dịch vụ của mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín, hình ảnh và luôn gia tăng giá trị thương hiệu của mình trong và ngoài nước theo thời gian.

Thứ ba, để thực hiện kinh doanh tiền tệ, NHTM phải đóng vai trò tổ chức trung gian huy động vốn trong xã hội. Nguồn vốn để kinh doanh của ngân hàng chủ yếu từ vốn huy động được và từ vốn tự có của ngân hàng. Do đó yêu cầu ngân hàng phải bộ máy quản trị điều hành chuyên nghiệp, giỏi, nhạy bén sự thay đổi diễn biến nền kinh tế thị trường, bên cạnh đó năng lực


tài chính vững mạnh cũng như có khả năng kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hữu hiệu để đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả.

Thứ tư, sản phẩm của ngành ngân hàng có đặc thù riêng, cần phải có tầm nhìn định hướng nghiên cứu phát triển sản phẩm mới với tiện ích thỏa mãn tối đa nhu cầu và thị hiếu của khách hàn ngân hàng thương mại muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu thụ được sản phẩm, do vậy, cũng cần chú ý đến tiếp thị, bán hàng, khuyến mãi, chính sách dịch vụ chăm sóc.

Thứ sáu, cạnh tranh của ngân hàng chịu ảnh hưởng tác động của thị trường tài chính quốc tế.

Cuối cùng, kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền tệ, mà điều hành chích sách tiền tệ là một công cụ được nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, lĩnh vực hoạt động kinh doanh này được nhà nước kiểm soát chặt chẽ, ngoài tuân thủ các quy định chung của pháp luật còn chịu sự chi phối bởi hệ thống luật pháp riêng cho NHTM và văn bản quy định, chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương.

2.2. NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.2.1. Nội dung đánh giá hoạt động của doanh nghiệp

Sách “Lý thuyết cạnh tranh doanh nghiệp thương mại”, đã tổng hợp quan điểm các tác giả đã nghiên cứu về năng lực cạnh tranh cho thấy nội dung đánh giá hoạt động doanh nghiệp bao gồm đánh giá hoạt động bên trong và hoạt động bên ngoài [10].

2.2.1.1. Nội dung bên trong doanh nghiệp

Có nhiều yếu tố bên trong doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, để có góc nhìn tổng hợp và khái quát, tác giả chia các yếu tố chính thành các nhóm như sau: yếu tố tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ thông tin và sản phẩm dịch vụ.

Ngân hàng thương mại là một loại hình của doanh nghiệp. Do đó, các


yếu tố để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cũng là các yếu tố để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt của doanh nghiệp, với sự đặc thù là kinh doanh các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền tệ như cho vay, huy động, thanh toán,… Vì vậy, để phân tích chuyên sâu hơn và phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng, tác giả phân tích các yếu tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp được nêu ở trên theo góc nhìn của lĩnh vực ngân hàng. Cụ thể như sau:

* Nguồn lực tài chính

Nguồn lực tài chính là yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối và khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh.

Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải có vốn. Vốn phải tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định để thuê được đội ngũ cán bộ quản lý, lao động lành nghề, đầu tư tài sản cố định, kỹ thuật công nghệ hiện đại và thực hiện các chiến lược đưa sản phẩm ra thị trường... do đó vốn là tiền đề để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là lành mạnh khi hội tụ đủ các yếu tố sau đây:

- Thông tin tài chính minh bạch, rõ ràng, có độ chính xác cao;

- Có lượng vốn đủ lớn để đáp nhu cầu đầu tư tài sản dài hạn, bảo đảm khả năng thanh toán ngắn hạn;

- Các hệ số tài chính luôn nằm trong ngưỡng an toàn, hiệu quả

- Có tấm đệm vốn đủ lớn để chống chọi với các rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường có thể bất ngờ xẩy ra như: dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng kinh tế,…

Trong các mô hình quản trị tài chính của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hiện nay, tiềm lực tài chính mạnh không chỉ giúp doanh


nghiệp có sức cạnh tranh tốt với các đối thủ cùng ngành mà còn có thể giúp doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận từ các công cụ tài chính. Trong báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, mảng doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động tài chính có thể chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ đó, mảng tài chính trở thành mảng sinh lời an toàn và bền vững cho doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có cơ cấu lợi nhuận có sự đóng góp với tỷ trọng cao của mảng hoạt động tài chính thường là các doanh nghiệp có lượng vốn lớn, có quy mô rộng khắp. Các công cụ tài chính doanh nghiệp thông thường có thể sử dụng bao gồm: tiền gửi, trái phiếu, cho vay, điều chuyển vốn, ....

Đối với lĩnh vực ngân hàng, tiềm lực tài chính có vai trò vô cùng quan trọng và to lớn bậc nhất trong việc cạnh tranh, phát triển và mở rộng mạng lưới, bởi ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ liên quan. Có nhiều yếu tố tác động đến tiềm lực tài chính của ngân hàng, tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất là nguồn vốn.

Nguồn vốn của ngân hàng thường rất lớn, tại Việt Nam quy định vốn pháp định (số vốn góp nhỏ nhất của chủ sở hữu) để thành lập một ngân hàng thương mại là 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vốn góp của chủ sở hữu một ngân hàng với quy mô vừa phải đã vượt xa số vốn pháp định trên rất nhiều. Trong thời gian qua, các NHTM không ngừng chạy đua trong cuộc đua tăng vốn chủ sở hữu thông qua nhiều hình thức như: góp mới, giữ lại lợi nhuận sau thuế, chia cổ tức bằng cổ phiếu, .....

Hiện nay, để đánh giá mức độ đáp ứng vốn của các ngân hàng thương mại so với quy mô hoạt động tương ứng, Ngân hàng Nhà nước đã và đang triển khai áp dụng tiêu chuẩn Basel. Basel là một bộ tiêu chuẩn quy định về các chỉ số hoạt động tài chính của ngân hàng. Basel đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, trong đó có cả các nước có hệ thống ngân hàng phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, … Basel hiện có 3 phiên bản là Basel I, II và

III. Basel III được công bố năm 2015, Basel IV đang được xây dựng.


* Nguồn lực nhân lực

Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực bao gồm tất cả những người đã và đang làm việc tại doanh nghiệp ở tất cả các vị trí khác nhau. Trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Đánh giá và phát triển tiềm năng con người, phát triển nguồn nhân lực là một nhiệm vụ ưu tiên, mang tính chiến lược trong kinh doanh.

Chất lượng nguồn nhân lực: Là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động được biểu hiện thông qua ba mặt: thể lực, trí lực và tinh thần có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó thể lực là nền tảng, phương tiện để tuyền tải tri thức, trí tuệ là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực và ý thức tác phong làm việc là yếu tố chi phối hoạt động chuyển hóa của thể lực, trí tuệ thành thực tiễn.

Hiệu quả lao động: thể hiện qua năng suất lao động, là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của doanh nghiệp.

* Công nghệ thông tin:

Công nghệ là phương pháp, là bí mật, là công thức tạo sản phẩm. Để sử dụng công nghệ có hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn công nghệ thích hợp để tạo ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường; phải đào tạo công nhân có đủ trình độ để điều khiển và kiểm soát công nghệ, nếu không thì công nghệ hiện đại mà sử dụng lại không hiệu quả. Để đánh giá về công nghệ của doanh nghiệp ta cần đánh giá nội dung sau:

Thứ nhất: Chi phí cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ mới Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng

hoá của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên cải


tiến công nghệ. Thực tế đã chứng minh các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh được trên thị trường cần có dây chuyền công nghệ mới. Do đó doanh nghiệp càng quan tâm, đầu tư nhiều cho nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng tăng.

Thứ hai: Mức độ hiện đại của công nghệ

Để có năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải trang bị những công nghệ hiện đại đó là những công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu thấp, năng suất cao, tính linh hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ của công ty càng hiện đại sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt do đó làm cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Mức độ hiện đại của công nghệ còn thể hiện trên phương diện an toàn trong vận hành hệ thống, bảo vệ an toàn cho các thông tin và tài sản của khách hàng. Hiện nay hệ thống công nghệ thông tin của các NHTM đang có nguy cơ bị tin tặc tấn công một cách trực tiếp và dán tiếp để đánh cắp thông tin khách hàng và lừa đảo chiếm đoạn tài sản của khách hàng. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên phương diện công nghệ thông tin, cần có các hệ thống an ninh để bảo vệ tốt nhất cho thông tin và tài sản của khách hàng.

* Sản phẩm dịch vụ

Do nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp là sản xuất - kinh doanh nên nếu sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp thì sức cạnh tranh của doanh nghiệp không thể cao được. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp dựa trên các yếu tố cơ bản như: chất lượng sản phẩm cao, giá cả hợp lí, mẫu mã hợp thời, đáp ứng nhu cầu khác hàng.

Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp gồm các nhóm chỉ tiêu thành phần: các chỉ tiêu kinh tế (chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng, chi sử dụng, chi phí môi trường) và các chỉ tiêu kỹ thuật (công dụng, thẩm mỹ, an toàn - vệ sinh, tiện dụng). Phần lớn các chỉ tiêu này được so sánh với tiêu chuẩn của ngành, của quốc gia và quốc tế.


Giá cả sản phẩm: cho đến nay, đây vẫn là yếu tố rất quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu có cùng chất lượng như nhau thì hàng hoá có giá cả thấp hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn. Điều này không chỉ có ở các nước đang phát triển mà cả ở những nước phát triển. Giá cả hàng hoá là chỉ tiêu tổng hợp. Để sản xuất hàng hoá ở mức giá thấp, cần có một số điều kiện như: có lợi thế về nguồn lực hoặc/ và sử dụng nguồn lực có hiệu quả, trình độ công nghệ phù hợp, tổ chức sản xuất tốt, tiết kiệm chi phí, khai thác tối đa thiết bị, công nghệ... Chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở so sánh giá giữa các hàng hoá cùng loại hoặc lương đương. Khi có sự khác biệt về chất lượng thì giá cả luôn được đặt trong sự so sánh với ích lợi do hàng hoá mang lại, độ bền, thẩm mỹ...

- Mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng là chỉ tiêu thể hiện việc cung cấp cho khách hàng đúng hàng hoá, đúng thời điểm với giá cả hợp lí. Để đây là một chỉ tiêu định tính, phản ánh khả năng kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. Để cung cấp "đúng" đồi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt, bảo đảm các nguồn lực (như nguyên nhiên liệu, thiết bị, ổn định, kiểm soát chất lượng tốt... Chỉ tiêu này được xác định thông qua điều tra khách hàng.

- Dịch vụ đi kèm: bao gồm việc hướng dẫn sử dụng, theo dõi sử dụng, bảo trì, bảo hành. Dịch vụ sau bán hàng là một yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho khách hàng, củng cố và phát triển quan hệ với khách hàng, nhờ đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá.

2.2.1.2. Đánh giá hoạt động bên ngoài

Hoạt động bên ngoài phản ánh khả năng thích ứng của doanh nghiệp một cách hiệu quả trước những thay đổi về phía khách hàng, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh, pháp luật và công chúng.

Đánh giá nội dung bên ngoài cần đánh giá những nội dung cơ bản sau:

Thị phần

Thị phần (market share) là tỉ lệ phần trăm về thị trường mà một đơn vị đó nắm giữ so với tổng quy mô thị trường cùng loại. Doanh nghiệp có tỷ lệ

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí