Các Đặc Điểm Của Sản Phẩm, Dịch Vụ Ngân Hàng Và Hoạt Động Kinh Doanh



hàng hoá, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận

trong hợp đồng mua bán hàng hoá.

+ Chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay thương mại: Đây là dịch vụ truyền thống của các NHTM với mục đích cung cấp vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Dịch vụ này chiếm tỷ trọng cao trong danh mục cho vay. Ngày nay, các NHTM không chỉ chiết khấu thương phiếu như thời kỳ đầu mà còn chiết khấu các loại giấy tờ có giá khác và cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ cho vay thương mại như linh động trong thời hạn cho vay, đa dạng mục đích cho vay và linh hoạt hình thức trả lãi.

+ Cho thuê tài chính: Các NHTM mua máy móc thiết bị và cho doanh nghiệp thuê lại. Sau khi kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp có thể làm thủ tục mua thiết bị. Đây là dịch vụ biến tướng của dịch vụ cho vay thương mại trung hạn và dài hạn. Điểm khác biệt là máy móc thiết bị thuộc sở hữu của ngân hàng.

- Cho vay đối với cá nhân:

+ Cho vay tiêu dùng: Trước đây, các NHTM ít chú ý đến cho vay tiêu dùng vì các khoản cho vay tiêu dùng thường có mức sinh lợi không cao do có quy mô nhỏ và nguy cơ vỡ nợ cao. Tuy nhiên, để đa dạng hóa danh mục cho vay và tăng cơ hội “bán chéo” dịch vụ ngân hàng, các NHTM đều cung cấp thêm dịch vụ này.

+ Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá như Chứng chỉ tiền gửi, Sổ tiết kiệm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

+ Cho vay hộ cá thể sản xuất kinh doanh: Là sản phẩm cho vay đối với các

cá nhân, hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho việc sản xuất kinh doanh.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi Nhánh Tiền Giang - 4

Nhóm dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác :

Các NHTM đang chú trọng phát triển nhóm dịch vụ này vì thu nhập của nhóm khá cao nhưng có mức độ rủi ro thấp hơn so với nhóm dịch vụ sử dụng vốn. Trong tương lai, tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ sẽ tăng mạnh. Một số dịch vụ chính của nhóm:

- Thanh toán trong nước, thu chi hộ và quản lý ngân quỹ.

- Thanh toán quốc tế và trao đổi, kinh doanh ngoại hối.

- Các dịch vụ khác như: môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá,

dịch vụ ủy thác, tư vấn tài chính, Mobibanking, Internetbanking,.v.v…



1.2.3. Các đặc điểm của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và hoạt động kinh doanh

của ngân hàng thương mại

Để hoạt động ngân hàng có thể đem lại hiệu quả cao trong quá trình cạnh tranh, mỗi ngân hàng phải nắm bắt kịp thời đặc điểm của thị trường mình kinh doanh và nhanh chóng đưa ra sản phẩm dịch vụ mới, tiện ích hơn, thông dụng hơn đáp ứng ngay nhu cầu của khách hàng.

1.2.3.1. Các đặc điểm của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng

- Tính vô hình: Đây là đặc trưng phân biệt chính với sản phẩm thông thường. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng không thể nắm trong tay, sờ mó hoặc nếm thử. Khách hàng rất khó đánh giá chất lượng trước khi mua và chỉ cảm nhận được chất lượng trong quá trình mua và sau khi sử dụng. Vì vậy, uy tín của ngân hàng cũng như sự tin tưởng của khách hàng ảnh hưởng lớn đến quyết định mua của khách hàng.

- Tính không tách biệt và không thể lưu trữ: Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng được tạo ra và tiêu dùng đồng thời nên không thể dự trữ để cung cấp trong tương lai. Vì vậy, ngân hàng phải có mạng lưới phân phối đủ rộng để đảm bảo sản phẩm, dịch vụ được tạo ra kịp lúc theo yêu cầu của khách hàng.

- Tính không đồng nhất: Thể hiện qua mức độ biến thiên cao của chất lượng trong quá trình cung cấp. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào sự tác động qua lại giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng. Cùng một sản phẩm, dịch vụ, chất lượng sẽ khác nhau nếu được cung cấp bởi các nhân viên khác nhau hoặc được đánh giá bởi các khách hàng khác nhau.

- Tính dễ bị sao chép: Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là một quá trình hay kinh nghiệm nên dễ bị sao chép.

Ngoài ra, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn có mối quan hệ hữu cơ với

nhau. Các dịch vụ này vừa tranh giành nguồn lực lại vừa bổ sung nguồn lực cho nhau.

Ví dụ: Quy mô của nhóm sản phẩm sử dụng vốn phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động của nhóm sản phẩm huy động vốn của ngân hàng. Ngược lại, nhóm sản phẩm sử dụng vốn hoạt động hiệu quả sẽ làm tăng tính cạnh tranh cho nhóm sản phẩm huy động vốn,…



1.2.3.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTM

- Cấu trúc tài sản: Trong hoạt động của mình, NHTM kinh doanh tiền tệ và các giấy tờ có giá khác nên cấu trúc tài sản khác biệt so với cấu trúc tài sản của các doanh nghiệp phi tài chính khác. Trong cơ cấu vốn kinh doanh thì phần lớn là vốn huy động từ bên ngoài và chỉ một phần nhỏ là vốn tự có của ngân hàng. NHTM chủ yếu kiếm lợi nhuận từ hoạt động cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ có liên quan; trong khi đó, các doanh nghiệp phi tài chính kiếm lợi nhuận chủ yếu từ bán hàng hóa.

- Khách hàng vừa là nhà cung ứng vừa là người tiêu thụ: Khách hàng có thể cho ngân hàng vay các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong ngắn hạn hoặc dài hạn, đồng thời cũng có thể vay tiền từ ngân hàng dùng cho các mục đích sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng khác.

- Quan hệ với khách hàng chủ yếu dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau: Uy tín kinh doanh luôn là tài sản vô hình quan trọng của doanh nghiệp. Bảo vệ uy tín kinh doanh đồng nghĩa với việc bảo vệ giá trị và hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt các đối tác kinh doanh và khách hàng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, uy tín càng đóng vai trò quyết định hơn.

- Chế độ bảo hộ độc quyền cho sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hầu như không có: Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, các dịch vụ của ngân hàng hiện nay pháp luật chưa có quy định về bảo hộ độc quyền. Vì vậy, các đối thủ cạnh tranh dễ sao chép và tung ra các sản phẩm, dịch vụ tương tự nếu đáp ứng được các yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và được khách hàng chấp nhận.

- Môi trường hoạt động nhạy cảm với thông tin: Trong điều kiện thông tin nhanh, đa dạng hiện nay, khách hàng dễ mất niềm tin khi tiếp nhận bất kỳ thông tin bất lợi từ ngân hàng. Điều này đã được chứng minh bằng hàng loạt tin đồn đoán như: lãnh đạo ngân hàng bỏ trốn, tăng - giảm lãi suất, sát nhập hoặc thâu tóm,…dễ làm cho khách hàng hoang mang dẫn đến việc rút tiền hàng loạt theo tâm lý “đám đông” và có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán, thậm chí là phá sản, nếu Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật không kịp thời can thiệp.



- Môi trường hoạt động có tính hợp tác cao: Trong môi trường kinh doanh tiền tệ ở Việt Nam, đòi hỏi các ngân hàng phải có hợp tác chặt chẽ với nhau. Sự hợp tác giúp chia sẻ rủi ro kinh doanh và cùng cung cấp dịch vụ cho khách hàng, tránh tình trạng phá sản của một ngân hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Từ giai đoạn hợp tác, có thể dẫn đến tái cấu trúc, sát nhập để trở thành ngân hàng mạnh hơn, điều này đảm bảo cho hệ thống ngân hàng an toàn. Đây là bài học kinh nghiệm từ việc đỗ vỡ hệ thống tín dụng nhân dân ở nước ta vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.

- Môi trường hoạt động chịu tác động lớn của các yếu tố bên ngoài

So với hoạt động của các ngành nghề khác, Chính phủ phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong điều kiện nền kinh tế nước ta dễ bị tác động, nhằm để:

+ Đảm bảo an toàn cho các khoản tiết kiệm của công chúng.

+ Kiểm soát khả năng “tạo tiền” của các NHTM và định hướng hoạt động kinh doanh của NHTM có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, trong đó góp phần vào việc chống lạm phát,...

+ Đảm bảo bình đẳng và công khai cho công chúng trong việc tiếp cận các

dịch vụ mà NHTM cung cấp.

+ Chịu tác động của nhiều loại rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi

ro thanh khoản, rủi ro ngoại hối, rủi ro quốc gia .v.v…

Chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố của môi trường bên ngoài như tình hình phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật, văn hóa tiêu dùng, công nghệ, môi trường cạnh tranh ngành .v.v…

- Môi trường hoạt động chịu sự chi phối mạnh của yếu tố công nghệ

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Vai trò của công nghệ đối với các hoạt động ngân hàng được thể hiện ở chỗ:

+ Nâng cao tính bảo mật thông tin, lành mạnh hóa trong hoạt động

+ Nó cho phép lưu trữ và đẩy nhanh tốc độ xử lý các dữ liệu tạo điều kiện



cho công tác hạch toán kế toán, lưu trữ và báo cáo. Nhờ đó, ngân hàng giảm bớt thời gian xử lý nghiệp vụ, cập nhật số liệu báo cáo phục vụ hữu hiệu cho công tác điều hành, quản lý, kiểm soát đối với hoạt động ngân hàng.

+ Cho phép thiết lập hệ thống giao dịch trực tuyến, xóa bỏ giới hạn trong hoạt động ngân hàng về địa giới hành chính, thời gian giao dịch và yêu cầu phải đến địa điểm ngân hàng để thực hiện giao dịch, góp phần quan trọng vào hoạt động thương mại điện tử; phục vụ hữu hiệu cho công tác quản lý điều hành theo mô hình tập trung, nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Công nghệ ngân hàng không những giúp đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ trong mối liên kết hoạt động, mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM, các máy cà thẻ POS mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro,…trong nội bộ ngân hàng.

1.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Trong phân tích, đánh giá hoạt động của lĩnh vực ngân hàng, chúng ta có nhiều tiêu chí đánh giá khác nhau tùy theo mục đích và yêu cầu. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTM người ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau:

1.3.1. Vị thế cạnh tranh của ngân hàng

1.3.1.1. Thị phần của ngân hàng

Xét một cách tổng quát nhất, thị phần là tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh hiện tại của một ngân hàng trong việc thu hút và duy trì khách hàng. Thị phần càng lớn, năng lực cạnh tranh của ngân hàng càng cao và ngược lại. Thị phần của một ngân hàng được đánh giá thông qua hai hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn.

Thị phần của mỗi ngân hàng chính là kết quả của việc ngân hàng đó sử dụng nguồn lực của mình như thế nào, và trên cơ sở nguồn lực có sẵn đó đã phát huy được những khả năng gì để thu hút và duy trì được một lượng khách hàng nhất định trên thị trường.

1.3.1.2. Uy tín và thương hiệu của ngân hàng

Sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ về tiền tệ nên uy tín của ngân hàng rất quan trọng trong việc thu hút, giữ chân khách hàng và phát triển sản phẩm. NHTM



không chỉ có các đối tác là khách hàng trong nước mà còn giao dịch với khách hàng nước ngoài nên một ngân hàng có uy tín, được các tổ chức tài chính quốc tế xếp hạng tín nhiệm cao chính là một phương thức quảng bá hữu hiệu cho ngân hàng. Việc gia tăng thị phần, mở rộng mạng lưới hoạt động, tăng thu nhập phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của NHTM. Tuy nhiên, uy tín của NHTM chỉ được tạo lập sau một khoảng thời gian khá dài hoạt động thông qua đội ngũ nhân viên, việc ứng dụng các sản phẩm công nghệ cao, việc đáp ứng đầy đủ và thỏa đáng các nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, để tạo được uy tín và danh tiếng trên thương trường, các NHTM phải nổ lực và luôn luôn cải tiến sản phẩm dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Giá trị thương hiệu của ngân hàng: là dấu ấn ngày càng quan trọng trong tâm trí khách hàng, những người trực tiếp sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Với một thương hiệu mạnh, ngân hàng có thể duy trì cũng như phát triển thị phần của mình một cách thuận lợi và vững chắc.

1.3.2. Các tiêu chí biểu hiện năng lực cạnh tranh của ngân hàng ở cấp độ nguồn lực

Để đánh giá NLCT của một doanh nghiệp, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cần sử dụng các nhóm tiêu chí như sau:

1.3.2.1. Năng lực tài chính

Tiềm lực tài chính là thước đo sức mạnh về tài chính của một ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Năm 1980, người Mỹ sử dụng mô hình CAMELS để phân tích hoạt động tài chính ngân hàng. CAMELS là chữ viết tắt của 6 nhân tố:

- C (Capital) – Vốn của ngân hàng;

- A (Asset quality) – Chất lượng tài sản;

- M (Management ability) – Năng lực quản trị điều hành;

- E (Earning) – Khả năng sinh lời;

- L (Liquidity) – Khả năng thanh khoản;

- S (Sensitivity) – Độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường

Theo khuyến cáo của các Tổ chức tài chính quốc tế có uy tín thì Việt Nam nên nghiên cứu và ứng dụng mô hình này để phân tích các nhân tố định tính và định



lượng của ngân hàng thương mại; đồng thời xếp hạng năng lực cạnh tranh cho hệ

thống ngân hàng trong thời gian tới để phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể như sau:

- Vốn của ngân hàng (C): Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng cần phải có vốn vì ba lý do: Một là để bù đắp những tổn thất không mong đợi; Hai là để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền cũng như các chủ nợ; Ba là để đảm bảo tuân thủ những quy định của cơ quan quản lý đặt ra nhằm bảo vệ người gửi tiền cũng như ổn định toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trên thực tế vốn của ngân hàng cũng được xem như một tấm đệm cho những trường hợp tổn thất. Mức độ vốn càng cao cho phép nhà quản trị theo đuổi những cơ hội kinh doanh với những rủi ro cao hơn. Mức độ vốn thấp sẽ thu hẹp mục tiêu của nhà quản trị.

- Chất lượng tài sản của ngân hàng (A): Tài sản là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán của một ngân hàng. Tài sản có chất lượng kém là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của hầu hết các ngân hàng.

- Năng lực quản trị điều hành (M): Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh nghiệp, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng.

- Khả năng sinh lời của ngân hàng (E): Khả năng sinh lời của ngân hàng giúp cho việc hình thành vốn và là điều kiện cần để hấp dẫn các nhà đầu tư, giúp tổ chức tín dụng tăng trưởng. Chỉ tiêu này vừa thể hiện khả năng quản trị có hiệu quả vừa thể hiện những tác động của chính sách tài chính vĩ mô đối với ngân hàng.

Khả năng sinh lời là tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Một NHTM có khả năng sinh lời cao sẽ có điều kiện trang bị, đầu tư công nghệ nâng cao chất lượng thu hút khách hàng; mặt khác đứng trên góc độ nhà đầu tư, người gửi tiền sẽ quyết định giao dịch với ngân hàng nào, khi biết chắc ngân hàng thương mại đó có thể an toàn do có thể bù đắp rủi ro từ khả năng sinh lời.

Khả năng sinh lời là thước đo đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của

một ngân hàng. Nó được phân tích qua các thông số sau:



+ ROE (Return on common equity): thể hiện tỷ lệ thu nhập của một đồng vốn

chủ sở hữu. Công thức tính như sau:


Lợi nhuận sau thuế

ROE =

Vốn chủ sở hữu


x 100


+ ROE cho biết mỗi 100 đồng vốn sở hữu của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.

+ ROA (Return on total assets): Thể hiện khả năng sinh lời trên tổng tài sản - đánh giá công tác quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng chuyển đổi tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Công thức tính như sau:



ROA =

Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản


x 100


+ ROA cho biết mỗi 100 đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. [5]

- Khả năng thanh khoản (L)

Thanh khoản trong quản trị ngân hàng là cần thiết bởi 2 lý do: thứ nhất là để thoả mãn yêu cầu đối với các khoản nợ mới mà không cần phải thu hồi các khoản đang cho vay hoặc bán đi các khoản đầu tư có kỳ hạn như cổ phiếu; thứ hai để đáp ứng các khoản tiền rút theo ý muốn của người gửi tiền bất cứ lúc nào.

Thực tế đã chứng minh được rằng, sự sụp đổ ngân hàng không chỉ diễn ra với các ngân hàng có tài sản nhỏ, mà cả những ngân hàng có tài sản lớn, thậm chí là rất lớn. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ sự yếu kém về tính thanh khoản của tài sản. Theo chuẩn mực quốc tế, khả năng thanh khoản của ngân hàng thể hiện qua tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay và tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay. Chỉ tiêu này đo lường khả năng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu tiền mặt của người tiêu dùng. Khi nhu cầu về tiền mặt của người gửi tiền bị giới hạn, thì uy tín của ngân hàng đó bị giảm một cách đáng kể, kết quả là ngân hàng đó sẽ bị phá sản nếu để điều này xảy ra.

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 11/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí