Chủ Thể Định Tội Danh Tội Hiếp Dâm Người Dưới 16 Tuổi.

nguyên tắc, đúng quy trình, chuẩn xác để đảm bảo việc định tội danh đúng, tránh tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm trong thực tiễn.

Hai là, định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hoạt động có tính tư duy lôgic, được tiến hành bởi CQĐT, VKS, Toà án và một số cơ quan khác theo quy định của pháp luật. Tính tư duy lôgic được hiểu là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành hoạt động xem xét, phân tích, đánh giá, so sánh, đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

1.1.2.3 Chủ thể định tội danh tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Hoạt động định tội danh là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Từ khi giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố đến giai đoạn khởi tố, truy tố và xét xử (các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án hình sự).

Định tội danh được bắt đầu từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra đối với Cơ quan điều tra và Cơ quan khác có thẩm quyền điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Chuyên viên đối với Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với Tòa án qua nhiệm vụ quyền hạn của mình khi phát hiện có các dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án phải ghi rò thời gian, căn cứ khởi tố và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.

Trong quá trình điều tra vụ án nếu Cơ quan điều tra thấy đủ căn cứ để xác định một người, hoặc một pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội thì ra Quyết định khởi tố bị can đối với cá nhân hoặc pháp nhân đó. Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rò khởi tố về tội gì áp dụng Điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Kết thúc điều tra Cơ quan điều tra phải có Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can ở khoản nào điều nào của Bộ luật hình sự.

Trong giai đoạn truy tố, sau khi nhận được Bản kết luận điều tra và hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố, Viện kiểm sát xem xét toàn bộ tài liệu chứng cứ cùng như quá trình tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật thì ra Quyết định truy tố bằng Bản Cáo trạng, nội dung cáo trạng thể hiện rất rò truy tố bị can ở điểm nào, khoản nào, Điều nào của Bộ luật hình sự.

Trong giai đoạn xét xử, ngay say khi nhận hồ sơ vụ án và Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, Thẩm phán được phân công thụ lý hồ sơ phải nghiên cứu Bản cáo trạng và toàn bộ chứng cứ cùng như xem xét tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra cũng như Viện kiểm sát có đúng theo quy định của pháp luật hay không? Để từ đó đưa ra các Quyết định: Quyết định đưa vụ án ra xét xử hay Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay Quyết định tạm đình chỉ, Quyết định đình chỉ. Tất cả các quyết định đưa ra của Thẩm phán đều căn cứ vào việc định tội danh. Vấn đề định tội danh của Hội đồng xét xử thể hiện rất rò trang Bản án. Định tội danh trong Bản án có ý nghĩa rất lớn. Vì không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hành phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của Bản án thể hiện rất rò bị cáo phạm tội gì, điều, khoản, điểm nào của Bộ luật hình sự.

Trong giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm việc xem xét định tội danh cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

1.1.2.4 Các giai đoạn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

Việc định tội danh Tội hiếp dâm dưới 16 tuổi phải trải qua các giai đoạn sau đây.

Giai đoạn thứ 1:

Định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 3

Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội dựa vào các hành vi khách quan của các chủ thể thực hiện hành vi.

Đối với giai đoạn này chủ thể tiến hành tố tụng phải tận dụng tối đa các biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép kết hợp với kinh nghiệm, kỹ năng

nghề nghiệp, với kiến thức lý luận, thực tiễn, bám sát vào các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn đối với loại tội phạm này để đưa ra kết luận hành vi khách quan đó có phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội nhưng đã đến mức buộc phải truy cứu trách nhiệm hình sự hay chỉ bị xử lý vi phạm hành chính.

Giai đoạn thứ 2:

Đối chiếu hành vi người phạm tội thực hiện đến mức buộc phải chịu trách nhiệm hình sự với các dấu hiệu cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 BLHS.

Sau khi xem xét chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì tiếp tục đối chiếu, so sánh một cách lôgic tư duy vật chất chặt chẽ với các dấu hiệu cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có thoả mãn hay không. Nếu đã thoả mãn yếu tố cấu thành của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì hành vi đó thoả mãn khoản nào của Điều 142 BLHS.

Giai đoạn thứ 3:

Ban hành các văn bản pháp luật phát sinh sau khi xác định đúng tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đúng chủ thể thực hiện hành vi.

1.1.3. Cơ sở pháp lí của việc định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

1.1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự

Các điều luật phần chung của BLHS quy định nhiệm vụ của Bộ luật, cơ sở trách nhiệm hình sự; nguyên tắc xử lý, quy định hiệu lực áp dụng của BLHS, quy định các chế định của pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng cho người định tội lấy làm căn cứ để thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật của mình.

Điều 142 BLHS năm 2015, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định như sau:

“Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;

b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Có tính chất loạn luân;

b) Làm nạn nhân có thai;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên;

e) Đối với 02 người trở lên;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Có tổ chức;

b) Nhiều người hiếp một người;

c) Đối với người dưới 10 tuổi;

d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”

1.1.3.2. Các văn bản pháp luật khác có liên quan về định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về việc “hướng dẫn áp dụng quy định từ Điều 141 đến Điều 147 BLHS và việc xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi”. Theo quy định tại Điều 3, Điều 4 và Điều 6 của Nghị quyết. Về một số tình tiết định tội, về một số tình tiết định khung và về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định cụ thể như sau:

Điều 3. Về một số tình tiết định tội

1. Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.

Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.

2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác…

7. Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:

a) Người bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể chống cự được);

b) Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).

8. Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 142 của BLHS bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

9. Trái với ý muốn của nạn nhân quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142 của BLHS là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm tội…

Điều 4. Về một số tình tiết định khung

1. Có tính chất loạn luân quy định tại điểm a khoản 2 Điều 142 của BLHS là một trong các trường hợp sau đây:

a) Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;


ruột;


kế;

b) Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu


c) Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;

d) Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ


đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.

2. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 142 của

BLHS là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Nhiều người hiếp một người quy định tại điểm b khoản 3 Điều 142 của BLHS là trường hợp 02 người trở lên hiếp dâm 01 người. Cũng được coi là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên cùng bàn bạc, thống nhất sẽ thay nhau hiếp dâm 01 người, nhưng vì lý do ngoài ý muốn mới có 01 người thực hiện được hành vi hiếp dâm.

Không coi là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên câu kết với nhau tổ chức, giúp sức cho 01 người hiếp dâm (trường hợp này là đồng phạm).

Điều 6. Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục

1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình

sự.

2. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân

thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.

3. Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của BLHS và các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.

Trong thực tiễn điều tra truy tố xét xử các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án khi định tội danh trước hết phải căn cứ vào Điều 8, Điều 142 BLHS để xác định hành vi xảy ra có dấu hiệu của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, thuộc khoản nào của Điều 142 BLHS. Tuy nhiên, khi định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc khung cơ bản (khoản 1), các khung tăng nặng của Điều 142 BLHS và khi quyết định hình phạt đối với tội phạm này thì phải áp dụng các quy định của Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để bảo đảm việc định tội danh đúng không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội.

1.2. Định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

1.2.1. Định tội danh trong các trường hợp thông thường.

1.2.1.1. Xác định khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng là dấu hiệu định tội. Khách thể của tội phạm là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định hành vi xảy ra có phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hay không. Nếu không có khách thể bị xâm hại thì không có cấu thành tội phạm. Ngoài ra, khách thể của tội phạm còn là căn cứ để phân biệt các tội phạm trong BLHS. Tuy nhiên, không phải bất kỳ quan hệ nào cũng được xem là khách thể của tội phạm.

Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật hình sự. Con người với tư cách là chủ thể của quan hệ xã hội có thể trở thành đối tượng tác động của tội phạm.

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí