Vốn Đầu Tư Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại [6]


- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, đầu tư cho các hoạt động hướng tới cộng đồng,

- Tổ chức tiếp cận khách hàng và giới thiệu sản phẩm,

- Thực hiện các chương trình ưu đãi, khuyến mãi.

Về bản chất, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một bộ phận của đầu tư phát triển. Nhưng không phải hoạt động đầu tư phát triển nào cũng là đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu kết quả của đầu tư phát triển là tăng thêm những tài sản thì kết quả của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra và tăng cường các nhân tố của năng lực cạnh tranh, củng cố các công cụ cạnh tranh, đáp ứng mục tiêu cạnh tranh theo từng giai đoạn.

1.2.4. Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại [6]

Ngân hàng huy động vốn từ nhiều nguồn, sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, có những nguồn vốn không sử dụng cho mục đích chính là kinh doanh và đầu tư, mà chủ yếu để đáp ứng cho nhu cầu dự trữ, thanh khoản như nguồn vốn vay NHNN, vay tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Vốn đầu tư nói chung, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nói riêng cần quy mô lớn và đảm bảo ổn định lâu dài, được huy động chủ yếu qua nguồn Vốn chủ sở hữu.

Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Song vốn chủ sở hữu đóng vai trò rất quan trọng, góp phần hình thành quy mô của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là đầu tư trung và dài hạn, tạo ra và duy trì cơ sở vật chất, trang thiết bị, công nghệ hiện đại.

Vốn chủ sở hữu được ưu tiên tài trợ cho các hoạt động đầu tư: xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị, mua sắm đổi mới công nghệ, thành lập công ty mới,… cho ngân hàng. Môt phần vốn này được đầu tư vào chứng khoán công ty và cho vay trung dài hạn. Các ngân hàng thường xuyên mở rộng vốn chủ sở hữu thông qua phát hành thêm cổ phiếu (hoặc xin cấp thêm), hoặc tự tích lũy để mở rộng quy mô đầu tư, quy mô và chất lượng hoạt động. Sự mở rộng vốn chủ sở hữu thường gắn với


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

các hoạt động đầu tư như gia tăng chi nhánh, thành lập công ty con hoặc góp vốn liên doanh, liên kết. Các hoạt động đầu tư này bao gồm mua sắm trụ sở, phương tiện làm việc, trang thiết bị và công nghệ ,…với chi phí ban đầu rất tốn kém.

Vốn chủ sở hữu gồm các thành phần:

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 4

(1) Vốn ban đầu: là vốn hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, vốn ban đầu do ngân sách Nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần, cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn sở hữu thuộc tư nhân.

Vốn chủ sở hữu ban đầu thường phải tuân thủ các quy định của nhà nước. Các quy định thường nêu rõ số vốn tối thiểu – vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng.

(2) Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động: bao gồm cổ phần phát hành thêm hoặc ngân sách cấp thêm trong quá trình hoạt động, lợi nhuận tích lũy, thặng dư vốn, các quỹ,…

- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần (thường hoặc ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng, quy mô đầu tư. Hình thức huy động này là không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết, đáp ứng những nhu cầu đầu tư lớn phát sinh như đổi mới công nghệ, thành lập công ty con, góp vốn liên doanh,…

Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu cho phép ngân hàng mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu một cách nhanh nhất. Tuy nhiên, phương thức này chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: sự phát triển của thị trường chứng khoán quyết định đến phạm vi, quy mô, tốc độ và chi phí phát hành; uy tín của ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành cổ phiếu phải được sự thông qua của các cổ đông vì việc này sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ sở hữu và quyền lợi của các cổ đông. Nếu việc phát hành thêm cổ phiếu không gắn liền với hoạt động đầu tư hiệu quả, không nâng cao


hiệu quả kinh doanh của ngân hàng sẽ làm cho thị giá giảm xuống, không được sự đồng tình của các cổ đông.

- Lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu:

Đối với các ngân hàng cổ phần, lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi phí đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông và phần kia để lại. Phần không chia được tính vào vốn chủ sở hữu bổ sung dưới tên gọi “lợi nhuận tích lũy lại” – quỹ tích lũy. Phần này về bản chất là thuộc sở hữu của các cổ đông, song được giữ lại nhằm mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu, phục vụ cho các hoạt động đầu tư và kinh doanh lâu dài. Đối với NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ đi thua lỗ (năm trước) và các chi phí đặc biệt, được trích bổ sung vốn chủ sở hữu theo quy định của Nhà nước. Nhiều ngân hàng trong điều lệ hoạt động của mình đều quy định mức vốn điều lệ (tối thiểu bằng vốn pháp định) và thường xuyên bổ sung bằng trích lợi nhuận để đạt được mức vốn điều lệ.

Tăng vốn chủ sở hữu thông qua tích lũy là một nguồn vốn đầu tư quan trọng, mang tính ổn định. Vốn tích lũy không làm thay đổi tỷ lệ sở hữu của cổ đông mà còn làm tăng thị giá cổ phiếu. Quy mô nguồn vốn này phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh, tỷ lệ lợi nhuận để lại cũng như quan điểm của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng.

- Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng. Các quỹ thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ này có thể được sử dụng vào kinh doanh hoặc đầu tư theo nguyên tắc có hoàn lại hoặc không, phụ thuộc vào mục đích của các quỹ .

Quỹ bảo toàn vốn: Trong điều kiện lạm phát, vốn chủ sở hữu bị giảm giá. Để bảo toàn giá trị, các ngân hàng trích lập quỹ bảo toàn vốn tính theo tỷ lệ lạm phát.

Quỹ dự phòng tổn thất: ngân hàng trích lập các khoản dự trữ nhằm bù đắp các tổn thất do rủi ro trong kinh doanh (nếu có). Đó là quỹ dự phòng tổn thất. Nếu tổn thất của ngân hàng nhỏ hơn số trích lập, vốn chủ sở hữu sẽ gia tăng và ngược lại.


Quỹ thặng dư: Trong quá trình hoạt động, thị giá cổ phiếu của ngân hàng có thể lớn hơn mệnh giá. Khi phát hành cổ phiếu mới, giá cổ phiếu bán ra có thể cao hơn mệnh giá. Phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá gọi là thặng dư vốn. Ngoài ra, giá trị các tài sản ngân hàng thường xuyên thay đổi theo giá thị trường, đặc biệt là chứng khoán và bất động sản. Những thay đổi giữa giá thị trường và giá mua các tài sản tại thời điểm đánh giá cũng được đưa vào thặng dư vốn. Quỹ này thường xuyên biến động gắn liền với sự thay đổi thị giá danh mục tài sản ngân hàng nắm giữ.

Quỹ đầu tư: Một số ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay đặc biệt, thường theo chỉ định của Chính phủ. Những ngân hàng này có thể được Chính phủ cấp cho một khoản vốn đặc biệt dưới hình thức quỹ cho vay. Quỹ này không phải trả lại cho Chính phủ. Đối với ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, quỹ này có tính chất tương tự như vốn Nhà nước cấp nên được hạch toán vào vốn chủ sở hữu.

Các quỹ khác: Ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,…các quỹ này được sử dụng cho các hoạt động đầu tư nghiên cứu, đầu tư cho nhân lực trong kỳ.

- Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ

phiếu.

Các khoản vay trung và dài hạn thông qua phát hành giấy nợ có khả năng

chuyển đổi thành vốn cổ phần cũng được coi là thuộc vốn chủ sở hữu dù nó mang tính chất của khoản nợ (phải hoàn trả) do có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Tuy nhiên, phần vốn này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ.

Ngoài ra, tùy từng giai đoạn, vốn đầu tư cho nâng cao năng lực cạnh tranh còn có thể nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế, tuy nhiên nguồn vốn này không thường xuyên.


Để có vốn chủ sở hữu cần phải có những chi phí nhất định. Các bộ phận cấu thành vốn chủ sở hữu có các chi phí khác nhau. Một số loại có chi phí tính vào chi phí của ngân hàng (thuế sử dụng vốn đối với vốn ngân sách cấp, lãi trả trái phiếu dài hạn, chi phí bảo lãnh phát hành, chi phí phát hành chứng khoán,…). Một số chi phí được tính trừ vào lợi nhuận sau thuế trước khi chia với tỷ lệ xác định như cổ phiếu ưu đãi có lãi suất cố định hoặc thả nổi không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh. Do đó, khi sử dụng cho các hoạt động đầu tư cần phải tính toán kỹ lưỡng, quản lý chặt chẽ nhằm hạn chế việc sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả.

Ngân hàng cần có các biện pháp gia tăng vốn chủ sở hữu để đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc tìm kiếm các nguồn vốn cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phải đáp ứng về quy mô, luôn đảm bảo tính ổn định và chi phí hợp lý.

1.2.5. Mô hình và quy trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Mô hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại:




Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả

Chiến lược cạnh tranh

Mục tiêu cạnh tranh


Công cụ cạnh tranh


Yếu tố năng lực cạnh tranh cần tập trung đầu tư


Vị thế cạnh tranh của NHTM

Chiến lược đầu tư Quy mô vốn đầu tư + Phân bổ vốn đầu tư + Tiến hành và quản lý đầu tư



Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và vị thế cạnh tranh của NHTM

Mô hình thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và mang tính liên tục giữa đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế cạnh tranh của NHTM.


- Tính chặt chẽ, tác động qua lại:

+ Từ vị thế cạnh tranh xác định được chiến lược đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là việc cần phải huy động vốn bao nhiêu và phân bổ vốn như thế nào? Ví dụ: tại một giai đoạn, khi ngân hàng nhận định thị phần của mình kém hơn các ngân hàng đối thủ do sản phẩm kém đa dạng, kém chất lượng, ngân hàng đó sẽ xây dựng một chiến lược cạnh tranh với mục tiêu gia tăng thị phần bằng công cụ sản phẩm (số lượng và chất lượng sản phẩm). Để đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm, ngân hàng sẽ phải tập trung nâng cao trình độ công nghệ, xác định mức độ công nghệ, loại hình công nghệ nào đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Trên cơ sở đó, ngân hàng xác định tổng vốn đầu tư cần huy động cũng như phân bổ vốn theo tỷ lệ phù hợp cho các hoạt động đầu tư.

Tuy nhiên, từ vị thế cạnh tranh không thể xác định trực tiếp được quy mô vốn và phân bổ vốn mà phải thông qua việc xây dựng chiến lược cạnh tranh với rất nhiều các yếu tố liên quan khác. Do đó, khó có thể định lượng được chính xác muốn tăng bao nhiêu phần trăm (%) thị phần thì cần huy động bao nhiêu vốn đầu tư.

+ Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định vị thế cạnh tranh của NHTM do đầu tư làm thay đổi các nhân tố của năng lực cạnh tranh. Đó chính là kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Mối quan hệ theo chiều này có thể lượng hóa chính xác thông qua hệ thống chỉ tiêu cả định tính và định lượng (trình bày ở mục 1.2.6 của chương 1)

- Tính liên tục: vị thế cạnh tranh của ngân hàng luôn luôn có nguy cơ thay đổi do sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh. Do đó, để giữ vững, củng cố và phát triển vị thế của mình, ngân hàng buộc phải duy trì liên tục hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Quy trình đầu tư lại lặp lại nhưng với mức độ và nội dung khác nhau ở từng giai đoạn.

Trên cơ sở mô hình mối quan hệ giữa đầu tư và vị thế cạnh tranh của NHTM, cần cụ thế hóa thành quy trình nhằm hướng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh mang lại hiệu quả cao nhất. Quy trình gồm các bước:


Bước 1: Đánh giá thực trạng cạnh tranh

Bước này gồm đánh giá vị thế cạnh tranh của mình, đối thủ cạnh tranh và môi trường cạnh tranh hiện tại. Ngân hàng cần phải xác định những đối thủ cạnh tranh chính, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đánh giá môi trường cạnh tranh gồm: đối thủ cạnh tranh; khách hàng; nhà cung cấp đầu vào; sản phẩm dịch vụ có khả năng thay thế; các chính sách, quy định có khả năng ảnh hưởng đến tình hình cạnh tranh.

Bước 2: Xây dựng chiến lược cạnh tranh

Trên cơ sở các đánh giá, nhận định của bước 1, ngân hàng cần xây dựng chiến lược cạnh tranh trong đó xác định mục tiêu cạnh tranh, tập trung cạnh tranh trong lĩnh vực nào, lĩnh vực nào là thế mạnh cần tiếp tục củng cố, lĩnh vực nào yếu cần phải tăng cường. Trong chiến lược cạnh tranh, ngân hàng cũng phải xác định các công cụ cạnh tranh chủ chốt nhằm đạt được mục tiêu.

Bước 3: Xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư

Từ chiến lược cạnh tranh, ngân hàng xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư. Nội dung quan trọng trong chiến lược đầu tư là xác định quy mô vốn, nguồn huy động, phương thức huy động vốn, phân bổ vốn vào những nội dung nào, thứ tự ưu tiên ra sao, vào thời điểm nào, phương pháp quản trị đầu tư ra sao,...

Bước 4: Tiến hành hoạt động đầu tư

Sau khi có chiến lược, kế hoạch đầu tư, ngân hàng triển khai các hoạt động đầu tư cụ thể, bao gồm: đấu thầu, mua sắm, xây dựng, làm việc với các đối tác, thử nghiệm,… Bước này đòi hỏi phải có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ, phân cấp quản lý, phân công công việc và phối hợp khoa học giữa các bộ phận đảm bảo đúng định hướng, tiến độ, ngân sách trong kế hoạch.

Bước 5: Đánh giá kết quả, hiệu quả đầu tư

Bước này nhằm rút kinh nghiệm và có những điều chỉnh kịp thời khi cần thiết. Để thực hiện bước này, ngân hàng đánh giá và tính toán các chỉ tiêu kết quả, hiệu quả xem mục tiêu đã đạt được hay chưa, đạt được ở mức độ nào. Vị thế cạnh tranh của ngân hàng sau đầu tư chính là kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư


nâng cao năng lực cạnh tranh mang lại. Khi đó một quy trình đầu tư kết thúc và cũng là khởi đầu cho một quy trình đầu tư mới ở giai đoạn tiếp theo.

1.2.6. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại

1.2.6.1. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả

Kết quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các NHTM thể hiện ở sự biến động của các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Trong đó, có những chỉ tiêu chịu tác động trực tiếp, có những chỉ tiêu chịu tác động gián tiếp của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, có những chỉ tiêu định lượng được nhưng cũng có những chỉ tiêu mang tính chất định tính. Do đó, kết quả của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại NHTM thể hiện qua hệ thống chỉ tiêu thuộc các nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả trực tiếp, nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả gián tiếp, nhóm các đánh giá định tính.

Tuy nhiên, tùy thuộc vào chiến lược cạnh tranh từng giai đoạn mà ngân hàng xác định các chỉ tiêu đánh giá kết quả phù hợp, không nhất thiết phải sử dụng toàn bộ cả hệ thống chỉ tiêu này.

Ví dụ, tại giai đoạn đầu phát triển, ngân hàng xây dựng chiến lược cạnh tranh với mục tiêu gia tăng thị phần và sử dụng công cụ cạnh tranh là kênh phân phối. Ngân hàng sẽ tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Kết quả sẽ là sự biến động của hệ thống kênh phân phối (số lượng chi nhánh, phòng giao dịch, mạng lưới ATM). Tại giai đoạn ngân hàng đã có vị thế nhất định, ngân hàng theo đuổi chiến lược cạnh tranh với mục tiêu dẫn đầu về lợi nhuận. Công cụ cạnh tranh được xác định là đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi đó ngân hàng sẽ tập trung đầu tư vào công nghệ và đánh giá kết quả sẽ thông qua các chỉ tiêu gián tiếp (biến động của lợi nhuận, tỷ suất sinh lời, tổng tài sản,…) và các đánh giá định tính.

(1) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả trực tiếp

Chỉ tiêu 1: Số lượng cán bộ được đào tạo tăng thêm hàng năm (ĐT)


∆ĐT = ĐTi – ĐTi-1 (1.6)

Trong đó: ĐTi: Số lao động được đào tạo năm i

ĐTi-1: Số lao động được đào tạo năm (i-1)

Chỉ tiêu 2: Biến động cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn

Chỉ tiêu này nếu tính từng năm sẽ không có biến động nhiều và không phản ánh được kết quả của đầu tư vì để nâng cao trình độ chuyên môn cần phải có một quá trình đào tạo vài năm. Do đó, chỉ tiêu này có thể tính cho một giai đoạn từ 3-5 năm.

Chỉ tiêu (1) và (2) phản ánh biến động của năng lực nguồn lao động, là kết quả trực tiếp của đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chỉ tiêu 3:) Số lượng điểm giao dịch (chi nhánh, phòng giao dịch) tăng thêm hàng năm (ĐGD)

∆ĐGD = ĐGDi – ĐGDi-1 (1.7)

Trong đó: ĐGDi: là số lượng chi nhánh, phòng giao dịch năm i.

ĐGDi-1: là số lượng chi nhánh, phòng giao dịch năm (i-1).

Chỉ tiêu này phản ánh biến động năng lực của hệ thống phân phối, là kết quả trực tiếp của hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng kênh phân phối.

Chỉ tiêu 4: Số điểm giao dịch tự động (ATM và POS) tăng thêm hàng năm (ĐGDTĐ)

∆ĐGDTĐ = ĐGDTĐi – ĐGDTĐi-1 (1.8)

Trong đó:ĐGDTĐi: là số điểm giao dịch tự động năm i.

ĐGDTĐi-1: là số điểm giao dịch tự động năm (i-1).

Chỉ tiêu này cũng phản ánh biến động năng lực của hệ thống phân phối, nhưng cũng là kết quả trực tiếp của hoạt động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ.

(2) Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả gián tiếp

Chỉ tiêu 1: Vốn điều lệ tăng thêm hàng năm (∆VĐL)

∆VĐL = VĐLi – VĐLi-1 (1.9)


Trong đó: VĐLi: vốn điều lệ năm i

VĐLi-1: vốn điều lệ năm (i-1)

Chỉ tiêu 2:Vốn chủ sở hữu tăng thêm hàng năm (VCSH)

∆VCSH = VCSHi - VCSHi-1 (1.10)

Trong đó: VCSHi: vốn chủ sở hữu năm i VCSHi-1: vốn chủ sở hữu năm (i-1)

Chỉ tiêu 3: Tổng tài sản tăng thêm hàng năm (TTS)

∆TTS = TTSi – TTSi-1 (1.11)

Trong đó: TTSi: Tổng tài sản năm i

TTSi-1: Tổng tài sản năm (i-1)

Chỉ tiêu 4: Lợi nhuận sau thuế tăng thêm hàng năm (LNST)

∆LNST = LNSTi – LNSTi-1 (1.12)

Trong đó: LNSTi: Lợi nhuận sau thuế năm i LNSTi-1: Lợi nhuận sau thuế năm (i-1)

Chỉ tiêu 5:Tỷ suất sinh lời tăng thêm hàng năm

∆ROA = ROAi – ROAi-1

∆ ROE = ROEi – ROEi-1 (1.13)

Trong đó: ROAi, ROEi : Tỷ suất sinh lời năm i ROAi-1, ROEi-1: Tỷ suất sinh lời năm (i-1)

Chỉ tiêu 6: Biến động của tỷ lệ an toàn vốn (∆CAR)

∆ CAR = CARi – CARi-1 (1.14)

Trong đó: CARi: Hệ số CAR năm i

CARi-1: Hệ số CAR năm (i-1)

Chỉ tiêu 7: Biến động của chất lượng tài sản có (∆TLNX)

∆ TLNX = TLNXi – TLNXi-1 (1.15)

Trong đó: TLNXi: Tỷ lệ nợ xấu năm i


TLNXi-1: Tỷ lệ nợ xấu năm (i-1)

Các chỉ tiêu từ (1) đến (7) phán ánh sự biến động của năng lực tài chính – một trong những tiêu chí quan trọng thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM. Tuy nhiên đây là những chỉ tiêu chịu tác động gián tiếp của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

Chỉ tiêu 8: Biến động của doanh số hàng năm (∆DS)


∆DS = DSi – DSi-1 (1.16)

Trong đó: DSi: Doanh số năm i

DSi-1: Doanh số năm (i-1)

Chỉ tiêu 9: Biến động của thị phần hàng năm (∆TP)

∆TP = TPi – TPi-1 (1.17)

Trong đó: TPi: Thị phần năm i

TPi-1: Thị phần năm (i-1)

Thị phần là chỉ tiêu phản ánh mức độ chiếm lĩnh thị trường của một dịch vụ của một ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ % của doanh số/số dư tại một thời điểm/số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng so với toàn thị trường.

Hai chỉ tiêu 8 và 9 tính cho một số sản phẩm chính của ngân hàng: huy động, cho vay, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ,…phản ánh sự biến động của năng lực hoạt động và phản ánh rõ nhất vị thế cạnh tranh của ngân hàng.

Chỉ tiêu 10: Biến động cơ cấu thu nhập từ các hoạt động kinh doanh:

Cơ cấu thu nhập hoạt động kinh doanh của ngân hàng thường tính tỷ trọng thu nhập từ lãi – thu nhập ngoài lãi. Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi càng cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng đa dạng, khả năng phân tán rủi ro tốt.

Chỉ tiêu này phản ánh sự biến đổi của năng lực công nghệ làm tác động đến khả năng đa dạng hóa sản phẩm. Nếu tính từng năm sẽ không có biến động nhiều và không phản ánh được kết quả của đầu tư vì để thay đổi cơ cấu thu nhập cần phải qua một quá trình vài năm. Do đó, chỉ tiêu này có thể tính cho giai đoạn 5 năm.


Các chỉ tiêu từ (8) đến (10) phản ánh sự biến đổi của năng lực hoạt động của ngân hàng dưới tác động của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.

(3) Nhóm các đánh giá định tính


(i) Biến đổi của năng lực công nghệ: ngoài những kết quả có thể định lượng được như sự thay đổi của hệ thống kênh phân phối hiện đại, cơ cấu thu nhập, sự biến đổi của năng lực công nghệ còn thể hiện qua nhiều khía cạnh khác khó có thể lượng hóa được như tác động đến tính năng của sản phẩm, quy trình tác nghiệp,…

(ii) Biến đổi của năng lực quản trị điều hành: thể hiện qua sự thay đổi khả năng giám sát của ban lãnh đạo, khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước những diễn biến thị trường; thay đổi của chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chính sách và quy trình hoạt động, kiểm soát nội bộ; thay đổi của cơ cấu tổ chức; mức độ phối hợp giữa các bộ phận và khả năng thích nghi, thay đổi của cơ cấu.

(iii) Biến đổi của chất lượng dịch vụ: phản ánh qua mức độ thỏa mãn của khách hàng đối với cung cách, thái độ, kỹ năng phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng, đối với cơ sở vật chất phục vụ giao dịch,…

1.2.6.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả


Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh có hiệu quả phải tác động tích cực đến mục tiêu của cạnh tranh. Mục tiêu của cạnh tranh có thể là gia tăng doanh số, gia tăng thị phần, gia tăng lợi nhuận hoặc cả ba mục tiêu này, tùy thuộc vào chiến lược cạnh tranh của mỗi ngân hàng trong từng giai đoạn. Đầu tư, thông qua tác động đến công nghệ, đến chất lượng nhân lực, năng lực quản trị điều hành, chất lượng sản phẩm,…đã tác động đến doanh số, thị phần và lợi nhuận. Do đó, đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các NHTM qua các chỉ tiêu sau:

(1) Doanh số bán hàng tăng thêm so với vốn đầu tư (∆DS/Iv)

∆DS/Iv = (DSi – DSi-1)/ Ivi (1.18)

Chỉ tiêu này tính cho từng sản phẩm, là những sản phẩm chính của ngân hàng, tùy thuộc vào mỗi giai đoạn mà có thể tính cho các sản phẩm khác nhau.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí