tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng anh gọi là “international economic integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau.Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau chiến tranh thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như cộng đồng kinh tế Châu Âu (EC), liên minh Châu Âu (EU), hiệp hội, mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), thị trường chung Trung Mỹ (CACM), cộng đồng Caribê và thị trường chung (CARICOM), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v... Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam.Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cách
tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là một tổ chức liên chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay). Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
2.3.2. Cơ hội thách thức trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong hội nhập quốc tế
Các cam kết trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng giữa Việt Nam và các quốc gia có liên quan trong 11 FTA đã được ký kết có sự khác nhau tương đối
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá, Nhân Tố Ảnh Hưởng Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Yếu Tố Ảnh Hưởng Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Của Các Ngân Hàng Nước Ngoài Tại Việt Nam
- Khái Quát Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Vietcombank
- Các Sản Phẩm Thế Mạnh Của Vietcombank Liên Quan Đến Ngoại Hối Và Tài Trợ Thương Mại
Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.
giữa các quốc gia và tạo ra đồng thời cả những cơ hội và thách thức cho các bên liên quan. Cụ thể các cơ hội và thách thức như sau:
2.3.2.1. Cơ hội
- Mở rộng hội nhập, mở rộng thị trường:
Mở rộng hội nhập là cơ hội dễ thấy nhất, đặc biệt là hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Mở rộng lãnh thổ sẽ đi đến mở rộng thị trường và các kết nối, theo đó, mỗi quốc gia sẽ tìm thấy những cơ hội khác nhau để hợp tác dựa trên tiềm năng và lợi ích của các bên. Trong AEC, Nghị định thư thực hiện gói cam kết thứ 6, các nước ASEAN đã đưa vào một nội dung quan trọng đó là: Nhằm tăng cường hội nhập khu vực trong lĩnh vực ngân hàng, hai hoặc nhiều nước thành viên ASEAN có thể tiến hành đàm phán riêng và mở cửa thêm cho nhau trong lĩnh vực này, các cam kết mở cửa riêng đó sẽ được đưa vào thành một phần của gói cam kết dịch vụ tài chính thứ 6 nhưng chỉ dành riêng cho các nước đàm phán mở cửa thêm, còn có mở rộng cho các nước còn lại trong ASEAN hay không thì tùy thuộc vào sự tự nguyện của các nước này .
- Thu hút đầu tư trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam:
Các luồng vốn đầu tư quốc tế tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và gia tăng cơ hội kinh doanh: Cùng với các cam kết tự do hóa về đầu tư sẽ góp phần thu hút dòng vốn đầu tư vào Việt Nam và khả năng huy động vốn cho các NHTMCP Việt Nam. Để ngăn ngừa sự thôn tín, trong tất cả các FTA, Việt Nam có thể giới hạn sự tham gia vốn chủ sở hữu của các tổ chức tín dụng nước ngoài vào các ngân hàng quốc doanh Việt Nam đã được cổ phẩn hóa một phần, đây là lợi thế của nhóm ngân hàng này, ngân hàng nước ngoài muốn góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng vốn chủ sở hữu của các tổ chức và cá nhân nước ngoài trong mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi có quy định khác của pháp luật Việt Nam hoặc được ủy quyền bởi một cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam [77] (dành cho các FTA có yếu tố ASEAN). Tương tự như trong CPTPP, Các quy định về đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng cho các nước: CPTPP cho phép các nước thành viên áp dụng các ngoại lệ cần thiết, tạo ra không gian chính sách gồm: các biện pháp thận trọng, các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân, chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ… nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Việc thực hiện cam kết đảm bảo không gian chính sách này chính là để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định [21].
- Cơ hội phát triển các dịch vụ xuyên biên giới, liên kết hợp tác giữa các ngân hàng giữa các quốc gia để tăng cường dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhẩu:
Lĩnh vực tài chính - ngân hàng sẽ được mở rộng hơn theo các cam kết chung. Đó là một số loại hình dịch vụ mới như: dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính quy biên giới, dịch vụ tư vấn các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới. CPTPP tạo ra cơ hội cho các ngành hàng hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động thương mại như: tín dụng, bảo lãnh, thanh toán quốc tế, hỗ trợ vốn và các dịch vụ khác doanh các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một mô hình của VN-EAEU có thể xem xét nhân rộng như trong quan hệ Nga và Việt Nam, hai bên sẽ tự do hóa các chế độ đầu tư, quy định đi lại của người dân (các nước thành viên khác của EAEU cũng có thể tham gia) và hợp tác trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được mở rộng.
Quan hệ thương mại Việt Nam - EAEU là quan hệ bổ sung cho nhau. Trong đó, EAEU có nhu cầu lớn về tất cả các sản phẩm mà doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như hàng may mặc, giày dép, điện tử, các sản phẩm nông sản như gạo, hạt tiêu, rau quả, thuỷ sản. Về phía EAEU, những
sản phẩm mà thị trường này có thế mạnh là nguồn nguyên liệu quan trọng mà doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu như hoá chất, sản phẩm phụ vụ công nghiệp giấy. Khó khăn của Việt Nam là ở thông tin thị trường, ưu đãi thuế quan cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật (Vũ Tiến Lộc, VCCI 2018). Do đó, việc các ngân hàng TMCP tăng cường kết nối với ngân hàng ở nước đối tác, cũng cấp thêm các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, cộng hưởng và sự ổn định của nền kinh tế và góp phần vào sự thành công của các FTA cũng có thể xem là một cơ hội tốt.
2.3.2.2. Thách thức
Thực tế cho thấy, hệ thống ngân hàng Việt - “huyết mạch” của nền kinh tế sẽ đối mặt không ít áp lực khi hội nhập kinh tế quốc tế.
- Gia tăng mức độ xâm nhập ngành, cạnh tranh và chuyện không thể tránh khỏi:
Các ngân hàng của các quốc gia FTA theo cam kết được hiện diện ở Việt Nam dưới dạng: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại, ngân hàng liên doanh TM có vốn nước ngoài không quá 50% vốn điều lệ, Cty cho thuê tài chính liên doanh, Cty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, tham gia cty tài chính mạo hiểm [77].
Các cam kết liên quan đến ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác được thực hiện theo luật pháp và quy định có liên quan do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ban hành để đảm bảo sự thống nhất với Điều VI của GATS và Đoạn 2 (a) của Phụ lục GATS về dịch vụ tài chính và Phụ lục về dịch vụ tài chính theo Chương 8. Theo nguyên tắc chung và trên cơ sở không phân biệt đối xử, việc cung cấp ngân hàng và các dịch vụ hoặc sản phẩm tài chính khác phải tuân theo các yêu cầu về hình thức thể chế và pháp lý có liên quan.
Trong CPTPP, các ngân hàng TMCP trong nước phải đặc biệt chú ý sự tham gia mạnh mẽ đến từ các quốc gia phát triển trong nhóm CPTPP như Nhật Bản, Úc, Singapore… sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Thêm
vào đó, các điều khoản về dịch vụ tài chính trong CPTPP cho phép các ngân hàng của các nước thành viên được cung cấp dịch vụ tài chính - ngân hàng xuyên biên giới, nghĩa là ngân hàng tại Úc có thể cung cấp dịch vụ cho người dân Việt Nam mà không cần có chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam. Với việc không ngừng ứng dụng các công nghệ hiện đại, mang lại trải nghiệm tốt đến khách hàng, cùng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, các ngân hàng nước ngoài sẽ cạnh tranh trực tiếp với NHTM trong nước. Đặc biệt, đó là nhóm khách hàng VIP - sẵn sàng chi trả để hưởng dịch vụ đẳng cấp là một nguy cơ ngay trước mắt của các NHTM Việt Nam.
- Nâng cao chuẩn mực theo thông lệ quốc tế các ngân hàng TMCP Việt Nam chưa đáp ứng kịp:
Việt Nam là một trong số ít quốc gia chưa áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) cho việc lập và trình bày báo cáo. Trong khi chuẩn mực này sắp tới có thể được áp dụng theo hình thức tự nguyện, sau đó tiến tới bắt buộc với một số đối tượng từ sau năm 2025. Hay “gần” hơn với hệ thống ngân hàng đó là trong khi ngân hàng một số nước đã lên chuẩn mực thứ ba của Basel thì Việt Nam mới có 7 ngân hàng được NHNN công nhận đạt chuẩn Basel II.
Những vấn đề cơ bản của hệ thống ngân hàng Việt hiện đang không dễ để khắc phục…
Theo đó, niềm tin của người Việt vào các ngân hàng Việt được nâng lên khi các ngân hàng hoạt động chuẩn mực, chuyên nghiệp, sản phẩm phong phú và thấu hiểu, tôn trọng khách hàng… Có lẽ nào Việt Nam có ngân hàng chuẩn mực quốc tế mà người Việt Nam lại không sử dụng dịch vụ? Và khẩu hiệu “người Việt dùng hàng Việt” không còn cần trong trường hợp này. Thậm chí, đó còn là cơ hội tiếp cận, được phục vụ một lượng khách hàng tiềm năng lớn, đa dạng tại các nước thành viên CPTPP.
- Không dễ dàng trong thực hiện dịch vụ xuyên biên giới cũng như các hoạt động đầu tư tại EU (Hiệp định EVFTA):
2.3.3. Kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại và bài cho Vietcombank
2.3.3.1. Kinh nghiệm của các ngân hàng trong nước
* Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Vietinbank
Vietinbank là một trong bốn NHTM có vốn Nhà nước và là một trong bốn ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Vietinbank được đánh giá là NHTM có sức cạnh tranh lớn về năng lực tài chính, sản phẩm dịch vụ và giá trị thương hiệu tại Việt Nam.
Về năng lực tài chính, các chỉ số tài chính của Vietinbank không ngừng được nâng cao và cải thiện trong nhiều năm liên tục, từ năm 2014 - 2018. Trong đó, nổi bật nhất là năm 2018 Vietinbank xếp thứ nhất về tổng tài sản và dư nợ cho vay với giá trị lần lượt là hơn 1,3 triệu tỷ và hơn 1 triệu tỷ đồng. Đồng thời, để mở rộng quy mô hoạt động, đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn vốn, Vietinbank đã chú trọng về vấn để tăng thêm vốn điều lệ. Chính Phủ đã phê duyệt cho Vietinbank giữ lại toàn bộ lợi nhuận năm 2017 và 2018 để tăng vốn. Trong thời gian tới, Vốn điều lệ của Vietinbank sẽ tiếp tục được nâng cao để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh và an toàn vốn.
Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, một trong các phương án dài hạn là nâng cao năng lực tài chính. Một trong các cách giúp năng lực tài chính của ngân hàng trở lên vững chắc và an toàn hơn là tăng vốn điều lệ. Tăng vốn điều lệ giúp ngân hàng có tấm đệm vốn dầy hơn, tăng khả năng chịu đựng với các biến động của thị trường. Ngoài ra, nâng cao năng lực tài chính còn có thể giúp ngân hàng quản lý chi phí tốt hơn, nâng cao biên lợi nhuận của sản phẩm dịch vụ, từ đó tạo sức cạnh tranh với các TCTD khác.
Về định hướng kinh doanh: Năm 2019, Vietinbank có những bước đổi mới đáng kể trong phương thức kinh doanh. Vietinbank chuyển đổi từ tăng trưởng về quy mô là chính sang tăng trưởng bền vững, hiệu quả; tập trung vào chất lượng tăng trưởng để tận dụng, tối ưu mọi nguồn lực đầu tư. Trong giai đoạn từ 2014 - 2018, có thể thấy Vietinbank là ngân hàng đứng đầu về tổng
tài sản và dư nợ cho vay. Tuy nhiên tỷ suất sinh lời lại không tương xứng với điều đó. ROE, ROA năm 2018 lần lượt đạt 0,48% và 8,3%, thấp hơn nhiều so với các ngân hàng cùng quy mô như Vietcombank và BIDV. Vì vậy, để nâng cao năng lưc cạnh tranh, Vietinbank đã đổi mới nhận diện về phương thức kinh doanh, phát triển theo chiều sâu, nâng cao tính hiệu quả.
Về sản phẩm dịch vụ: Trong giai đoạn 2014 -2018, Vietinbank đã đa dạng hóa tệp khách hàng, thay vì tập trung vào các khoản tín dụng lớn của các khách hàng doanh nghiệp, tổ chức, Vietinbank đã phát triển mảng khách hàng bán lẻ để phân tán rủi ro và đa dạng hóa hệ sinh thái khách hàng. Năm 2018, Vietinbank được Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Tập đoàn Dữ liệu quốc tế IDG tổ chức bình chọn là “Ngân hàng bán lẻ tiêu biểu năm 2018” và “Ngân hàng điện tử tiêu biểu 2018”. Vietinbank đã và đang ứng dụng công nghệ thông tin và các hoạt động kinh doanh của ngân hàng như ngân hàng điện tử, quản trị nội bộ, … Một số sản phẩm tiêu biểu của Vietinbank ứng dụng yếu tố công nghệ thông tin như: ngân hàng điện tử - ipay, thẻ ghi nợ sử dựng công nghệ chip contactless, Giao dịch Tài trợ thương mại 24/7 với VietinBank Trade Portal, các dịch vụ thu chi hộ theo chuỗi khách hàng riêng biệt, … Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ truyền thống như cho vay, tiết kiệm, thanh toán và tài trợ thương mại của Vietinbank luôn được đánh giá cao về sức cạnh tranh so với Vietcombank, BIDV.
Như vậy, về sản phẩm dịch vụ, Vietinbank đã và đang xoay trục về bán mảng bán lẻ để tìm kiến mức sinh lời cao hơn và phân tán rủi ro trong tệp khách hàng hiện hữu. Từ đó, năng cao năng lực cạnh tranh về chiều sâu và trong dài hạn.
* Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV
BIDV được biết đến là một trong bốn NHTM có vốn Nhà nước lớn nhất tại Việt Nam, với đặc thù là các sản phẩm đầu tư, cho vay dự án với quy mô lớn. BIDV là một trong các ngân hàng có bề dầy hoạt động lâu đời và được nhiều khách hàng biết tới và sử dụng sản phẩm dịch vụ. BIDV được