Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


chiếm thị phần cao trong một yếu tố cấu thành sẽ được xem là thương hiệu dẫn đầu, thị phần là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ thành công trong quá trình hoạt động. Thị phần là kết quả của sự phát triển và cạnh tranh trong quá khứ của doanh nghiệp, nhưng đồng thời nó cũng tác động đến quá trình phát triển và khả năng cạnh tranh của NHTM trong tương lai. Bởi vì thông qua đó nhà đầu tư sẽ đánh giá về qui mô hoạt động, thương hiệu của doanh nghiệp mà người sử dụng dịch vụ biết được có nhiều người cũng sử dụng sản phẩm dịch vụ nên đã đánh giá cao dịch vụ của NHTM. Do vậy, khách hàng cũng sẽ tin tưởng, vững tâm hơn khi quyết định giao dịch, quyết định sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được đánh giá là có sức ảnh hưởng lớn, cạnh tranh cao khi nó có thị phần hoạt động lớn.

Để đánh giá thị phần hoạt động của doanh nghiệp người ta đánh giá thông qua các tiêu chí như sau:

- Mức tài trợ, đóng góp của doanh nghiệp cho nền kinh tế.

- Mức tài trợ của doanh nghiệp so với tổng mức tài trợ của toàn hệ thống doanh nghiệp.

- Số lượng người sử dụng, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác đối với sản phẩm cùng loại.

* Giá trị thương hiệu

Giá trị, thương hiệu của doanh nghiệp cũng đóng vai trò không nhỏ tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển. Bên cạnh đó giá trị thương hiệucũng phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong quá khứ và tương lai.

Giá trị thương hiệu doanh nghiệp có thể được hiểu là một thuật ngữ dùng trong hoạt động marketing, thể hiện tên giao dịch của một chủ thể doanh nghiệp, được gắn liền với bản sắc riêng và uy tín, hình ảnh của chủ thể mang tên này nhằm gây dấu ấn sâu đậm trong tâm trí của khách hàng. Khách hàng xác định và phân biệt giữa các doanh nghiệp khác trong hoạt động kinh doanh khi cung cấp các sản phẩm doanh nghiệp.


Nói cách khác, thương hiệu của một doanh nghiệp chính là sự nhìn nhận, nhận thức của khách hàng về doanh nghiệp đó. Khách hàng có thể không cần biết ý nghĩa của một tên gọi, một biểu tượng của một doanh nghiệp nào đó nhưng nếu khi họ có nhu cầu về tài chính và họ đến doanh nghiệp một cách vô thức thì doanh nghiệp đó đã xây dựng được cho mình một thương hiệu vững chắc trong tâm trí khách hàng.Thương hiệu doanh nghiệp cũng được cấu thành từ hai phần: Phần 1: Đó là tên của doanh nghiệp được khách hàng. Ví dụ như: Ngân hàng Vietcombank, HDbank, ACB, HSBC...vv. Phần 2 đó là câu khẩu hiệu Slogan của Ngân hàng như: Vietcombank: “ Chung niềm tin - vững tương lai “, HDBank: “Ngân hàng của bạn - Ngôi nhà của bạn”, ACB: “Ngân hàng của mọi nhà, HSBC: “Ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương”…vv.

Giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp được đánh giá dựa trên 3 tiêu chí chính.

Đầu tiên là năng lực, quy mô tài chính và hiệu quả kinh doanh thể hiện trên báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất. Các chỉ tiêu được đánh giá như: tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận sau thuế, hiệu quả sử dụng vốn, tỷ lệ nợ xấu... Cùng với đó, thương hiệu truyền thông được đánh giá bằng phương pháp Media Coding - mã hóa các bài viết về doanh nghiệp trên các kênh truyền thông có ảnh hưởng không nhỏ đến nhận diện thương hiệu doanh nghiệp.

Ngoài ra, đối với ngành ngân hàng, Vietnam Report còn điều tra khảo sát về mức độ nhận biết và đo lường sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng các sản phẩm/ dịch vụ của ngân hàng; Khảo sát nhóm chuyên gia tài chính về vị thế, giá trị thương hiệu của các ngân hàng trong ngành; và điều tra khảo sát về kết quả, quá trình hoạt động của các ngân hàng được thể hiện về quy mô vốn, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, kế hoạch hoạt động trong năm... Để từ đó đưa ra kết quả xác định vị thế của từng Ngân hàng


trong từng sản phẩm dịch vụ như: Ngân hàng bán lẻ tốt nhất, Ngân hàng thuộc Top 50 doanh nghiệp có môi trường làm việc tốt nhất…vv. Vì thế, khi nói về lĩnh vực hoạt động nào người tiêu dùng sẽ xác định giá trị thương hiệu Ngân hàng đó.

2.2.2. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Trong mục “2.2.1. Nội dung đánh giá hoạt hoạt động của doanh nghiệp” của luận án này, tác giả đã trình bày các yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng nói riêng, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh. Trong phần này, tác giả xin trình bày các tiêu chuẩn định lượng và định tính để cụ thể hóa các yếu tố trên.

* Năng lực tài chính

Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng rất nhiều công cụ khác nhau để đưa ra kết quả. Trong đó, có cả các công cụ định tính và định lượng. Một trong số các công cụ hay được sử dụng là đánh giá tình hình tài chính thông qua việc phân tích các chỉ số tài chính, hay còn gọi là phân tích tài chính doanh nghiệp.

Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc sử dụng các công cụ thống kê, so sánh, đối chiếu để đưa ra điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính hiện hữu của doanh nghiệp. Kết hợp với các chính sách bán hàng, chính sách thu hồi và thanh toán công nợ, chính sách hàng tồn kho…, để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tài chính. Mục đính cuối cùng của việc phân tích tài chính là để giúp nhà quản trị đưa ra phương hướng phù hợp cho việc phát triển công ty, từ đó tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp.

Đối với ngân hàng, việc phân tích tình hình tài chính về cơ bản cũng giống như đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đứng trên khía cạnh đặc thù về đặc điểm kinh doanh, tình hình tài chính của ngân hàng thường được đánh giá thông qua các nhóm chỉ số sau đây:


Bảng 2.1. Đặc điểm kinh doanh, tình hình tài chính của ngân hàng


STT

Nhóm chỉ tiêu

Chỉ tiêu

01

Quy mô

Tổng tài sản, vốn điều lệ, dư nợ cho vay, huy động

vốn, lợi nhuận sau thuế.

02

Sinh lời

ROS, ROA, ROE


03


An toàn vốn

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ

lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi, ….

04

Chất lượng

tài sản

Tỷ lệ nợ tiêu chuẩn, nợ chú ý và nợ xấu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế - 7

Nhóm chỉ tiêu về quy mô

Để so sánh quy mô của các ngân hàng thương mại, các chỉ tiêu thường được sử dụng các chỉ tiêu tài chính bao gồm tổng tài sản, vốn điều lệ, dư nợ cho vay, huy động vốn và lợi nhuận sau thuế trong báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính bán niên hoặc báo cáo tài chính quý.

Tại Việt Nam, nhóm ngân hàng thương mại có vốn của Nhà nước như Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank thường có có quy mô về tổng tài sản, vốn điều lệ, dư nợ cho vay và huy động vốn cao hơn nhóm các ngân hàng thương mại còn lại. Do có nguồn vốn góp lớn từ cổ đông lớn là Ngân hàng Nhà nước.

Nhóm chỉ tiêu về sinh lời

Để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp, thông thường sẽ sử dụng các hệ số bao gồm: ROA - Hệ số sinh lời trên tổng tài sản và ROE - Hệ số sinh lời trên vốn chủ sử hữu, NIM - Tỷ lệ thu nhập lãi thuần.

Các ngành nghề kinh doanh khác nhau sẽ có các đặc điểm về độ lớn của hệ số sinh lời khác nhau. Để đánh giá hiệu quả sinh lời của doanh nghiệp, thông thường sẽ sử dụng phương pháp so sánh. Trong đó, so sánh hệ số sinh lời của doanh nghiệp với hệ số sinh lời trung bình của ngành và hệ số sinh lời chung của tất cả các doanh nghiệp.


* Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)


(ROA) =

Lợi nhuận sau thuế

x

100%

Tổng giá trị tài sản

Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản cho biết mức độ sinh lời của tài sản, tức là một đồng tài sản sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khác với ROS, ROA có tính chất tích lũy và lũy kế từ thời điểm đầu năm đến cuối năm. Trong điều kiện kinh doanh bình thường, ROA tại thời điểm đầu năm thường thấp cuối năm do lợi nhuận sau thuế có tính chất tích lũy.

* Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROE):


(ROE) =

Lợi nhuận sau thuế

x

100%

Vốn chủ sở hữu

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu cho biết mức độ sinh lời của vốn chủ sở hữu, tức là một đồng vốn sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE giống với ROA có tính chất tích lũy và lũy kế từ thời điểm đầu năm đến cuối năm. Trong điều kiện kinh doanh bình thường, ROE tại thời điểm đầu năm thường thấp cuối năm do lợi nhuận sau thuế có tính chất tích lũy.

* Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM):


(NIM) =

Thu nhập lãi thuần


Tài sản lãi

x 100%

NIM cho biết phầm trăm chênh lệch giữ thu nhập lãi và chi phí lãi phải trả của ngân hàng, cho biết ngân hàng đang hưởng chênh lệch lãu suất huy động và cho vay là bao nhiêu. NIM càng cao thể hiện ngân hàng hoạt động càng hiệu quả tỏng công tác quản lý tài sản và nợ.

Để đánh giá hiệu quả sinh lời của một doanh nghiệp hoặc một NHTM, phương pháp thường được sử dụng là phương pháp so sánh. Trong đó, so sánh chỉ tiêu sinh lời của NHTM đó với các NHTM khác và so sánh với trung bình ngành ngân hàng. Hệ số sinh lời của nhóm ngành ngân hàng thường có đặc điểm là ROE khá lớn trong khi ROA khá nhỏ. Trong Chương 3, tác giả sử


dụng phương pháp so sánh để đánh giá khả năng sinh lời của VCB với các NHTM khác.

Nhóm chỉ tiêu về an toàn vốn

Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng nói riêng, ngoài các chỉ tiêu về quy mô và sinh lời, thì nhóm chỉ tiêu an toàn vốn là nhóm chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, ngân hàng.

Nền kinh tế thế giới trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế kéo dài, trong đó, có cả sự sụp đổ của nhiều ngân hàng lớn trên thế giới. Sự sụp đổ của một ngân hàng nào đó có thể gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, chính trị của quốc gia đó. Bởi lẽ, thông thường quy mô hoạt động của một ngân hàng thường rất rộng, được nhiều tổ chức và cá nhân biết đến và sử dụng dịch vụ. Vì thế, khi ngân hàng đó sụp đổ, sẽ gây ra sự mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng và có thể là sự thiệt hại về tài chính của khách hàng. Hơn nữa, vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính cũng sẽ gây ra rủi ro đổ vỡ hệ thống khi một mắt xích trong số đó đổ vỡ. Kinh tế bị ảnh hưởng sẽ dẫn đến các biến động về chính trị, gây rảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Nhiều bài học được rút ra từ sự vận hành và quản lý để bảo đảm tính an toàn trong hoạt động của các ngân hàng. Các ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý luôn tìm cách nâng cao tính an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại thông qua việc thiết lập các quy định về vận hành và kiểm soát. Hiện nay, có nhiều quy định để nâng cao tính an toàn trong hoạt động của NHTM, trong đó bộ chỉ tiêu về tỷ lệ an toàn vốn theo Uỷ ban Basel là bộ chỉ tiêu thông dụng nhất hiện nay.

Basel là bộ các tiêu chuẩn áp dụng cho ngân hàng thương mại để bảo đảm mức độ hoạt động an toàn. Hiện nay trên thế giới đã có các phiên bản khác nhau của Basel như Basel I, Basel II, Basel III với các mốc thời gian ban hành là năm 1988, 2004 và 2010. Basel IV đang trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện.


Tác giả xin tóm tắt các chỉ tiêu chính quy định về giới hạn, tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng như sau:

* Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phản ánh mức đủ vốn của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên cơ sở giá trị vốn tự có và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tỷ lệ an toàn vốn bao gồm Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất. Hiện nay, có 2 cách tính hệ số Car như sau:

Theo Thông tư 41


C

CAR =

x 100%

RWA + 12,5 (KOR + KMR)

Trong đó:

- C: Vốn tự có;

- RWA: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;

- KOR: Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động;

- KMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường

- Theo thông tư 22


Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ (%)

Vốn tự có riêng lẻ

=

x 100%

Tổng tài sản Có rủi ro riêng lẻ

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%)

Vốn tự có hợp nhất

=

x 100%

Tổng tài sản Có rủi ro hợp nhất

Ngưỡng quy định: Từng ngân hàng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ là 9% và Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất là 9%. Riêng đối với các NHTM áp dụng theo Thông tư 41, tỷ lệ trên được áp dụng là 8%. Cách tính tỷ lệ an toàn vốn của Thông tư 41 có một vài điểm khác biệt so với Thông tư 22.


* Tỷ lệ khả năng chi trả:

Theo thông tư 22, Tỷ lệ khả năng chi trả bao gồm 02 chỉ tiêu bao gồm tỷ lệ dự trữ thanh khoản và tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày. Tỷ lệ khả năng chi trả phản ánh mức độ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chi trả đến hạn và phát sinh ngoài dự kiến bằng tài sản có tính thanh khoản cao. Công thức tính như sau:

Tỷ lệ dự trữ thanh khoản (%)

=

Tài sản có tính thanh khoản cao

x 100%

Tổng Nợ phải trả


Tỷ lệ khả năng chi trả

trong 30 ngày (%)

Tài sản có tính thanh khoản cao




=

Dòng tiền ra ròng trong 30 ngày tiếp theo

x 100%

Ngưỡng quy định: Tỷ lệ dự trữ thanh khoản tối thiểu 10%. Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày: đối với đồng VNĐ là tối thiểu 50% và đối với ngoại tệ áp dụng như sau: (i) Ngân hàng thương mại: 10%; (ii) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 5%; (iii) Ngân hàng hợp tác xã: 5%.

* Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn: Để bảo đảm tính an toàn thông qua khả năng cân đối thanh khoản, NHNN quy định các NHTM được sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn với một tỷ lệ tối đa. Công thức tính tỷ lệ này theo Thông tư 22,

như sau:


Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn

được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn (%)


=

Tổng dư nợ cho vay trung dài hạn -

Tổng nguồn vốn trung dài hạn


x 100%


Nguồn vốn ngắn hạn


Ngưỡng quy định: Ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn theo lộ trình sau đây:

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2020 đến hết ngày 30 tháng 9 năm 2020: 40%;

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí