1.4.1.2. Tại Trung Quốc
Việc lựa chọn Trung Quốc để so sánh bởi lẽ chính sách pháp luật đất đai của Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với pháp luật đất đai của Việt Nam. Tuy nhiên xét về tổng thể thì việc ý thức chấp hành pháp luật của người Trung Quốc luôn cao hơn ở Việt Nam. Việc sử dụng đất đai tại Trung Quốc thực sự tiết kiệm, Nhà nước Trung Quốc hoàn toàn cấm việc mua bán chuyển nhượng đất đai. Do vậy thị trường đất đai gần như không tồn tại mà chỉ có thị trường nhà cửa.
Với Trung Quốc, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư.
Về trình tự, thủ tục thu hồi đất: Nhà nước thông báo cho người sử dụng đất biết trước việc họ sẽ bị thu hồi đất trong thời hạn một năm.
Về phương thức bồi thường, người dân có quyền lựa chọn các hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng nhà tại khu ở mới. Người dân thường lựa chọn bồi thường thiệt hại bằng tiền và tự tìm chỗ ở mới phù hợp với nơi làm việc của mình.
Về giá bồi thường lấy tiêu chuẩn là giá thị trường, mức giá này cũng được Nhà nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà. Đối với nhà ở của người dân thành phố, nhà nước bồi thường bằng tiền là chính, với mức giá do thị trường bất động sản quyết định qua các tổ chức trung gian để đánh giá, xác định giá. Với người dân nông thôn, nhà nước thực hiện theo những cách thức rất linh hoạt, theo đó, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có cách bồi thường khác nhau: tiền bồi thường sử dụng đất đai; tiền bồi thường hoa màu; bồi thường tài sản tập thể.
Về tái định cư, thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ, các khu TĐC được quy hoạch tổng thể với nhiều hạng mục hạ tầng nhà ở, trường học …, bố trí hệ thống giao thông động và tĩnh. Nhà ở được xây dựng đồng bộ và kịp thời đáp ứng nhu cầu nhiều loại căn hộ với các nhu cầu sử dụng khác nhau. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền quan tâm tạo điều kiện về việc làm, đối với các đối tượng chính sách xã hội được Nhà nước có chính sách ưu tiên đặc biệt.
Khi thực hiện việc bồi thường GPMB phải xây dựng các biện pháp xử lý theo phương thức trước tiên là dựa vào trọng tài, sau đó là khiếu tố. Bên cạnh những thành
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá công tác bồi thường giải phóng mặt bằng dự án đầu tư xây dựng đường Thanh Niên, thị trấn Mậu A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - 2
- Diện Tích Đất Bồi Thường, Giá Đất Bồi Thường
- Ảnh Hưởng Của Công Tác Thu Hồi Đất, Bồi Thường Giải Phóng Mặt Bằng Đến Đời Sống Của Người Dân Sau Khi Bị Thu Hồi.
- Thực Trạng Về Công Tác Bồi Thường Gpmb Trên Địa Bàn Huyện Văn Yên
- Điều Kiện Tự Nhiên - Kinh Tế Xã Hội Tại Thị Trấn Mậu A, Huyện Văn Yên
- Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
công, chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm; tốc độ tái định cư chậm, thiếu đồng bộ, thực hiện GPMB trước khi xây xong nhà TĐC. (Ngân hàng phát triển Châu Á, Cẩm nang về Tái định cư)
1.4.1.3. Tại Hàn Quốc
Hàn Quốc là một nước nhỏ hẹp với 70% diện tích là đất đồi, núi cho nên đất công cộng được xem là một vấn đề hết sức quan trọng. Do đó, để SDĐ một cách hiệu quả hơn thì các quy hoạch, và quy chế được coi như một hình thức pháp luật.
Luật bồi thường thiệt hại của Hàn Quốc được chia làm hai thể chế:
- Một là: Luật “Đặc lệ” liên quan đến bồi thường thiệt hại cho đất công cộng đã được quy định theo thủ tục thương lượng của pháp luật.
- Hai là: Luật “Sung công đất” theo thủ tục quy định cưỡng chế của công pháp.
Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế thì cần rất nhiều đất công cộng trong một thời gian ngắn với mục đích cưỡng chế đất cho nên luật “Sung công đất” đã được xây dựng vào năm 1962. Sau đó theo pháp luật ngoài mục đích thương lượng thu hồi đất công cộng thì còn muốn thống nhất việc này trên toàn quốc và đảm bảo quyền tài sản của công nên luật này đã được lập vào năm 1975 và dựa vào hai luật trên, Hàn Quốc đã triển khai bồi thường thiệt hại cho đến nay. Tuy nhiên dưới hai thể chế luật và trong quá trình thực hiện luật “Đặc lệ” thương lượng không đạt được thoả thuận thì luật “Sung công đất” được thực hiện bằng cách cưỡng chế nhưng nếu như thế thì phải lặp đi lặp lại quá trình này và đôi khi bị trùng hợp cho nên thời gian có thể bị kéo dài hoặc chi phí bồi thường sẽ tăng lên. Do đó luật bồi thường thiệt hại của Hàn Quốc mới ra đời và thực hiện theo 3 giai đoạn:
- Thứ nhất tiền bồi thường đất đai sẽ được giám định viên công cộng đánh giá trên tiêu chuẩn giá quy định để thu hồi đất phục vụ cho công trình công cộng. Giá quy định không dựa vào những lợi nhuận khai thác do đó có thể đảm bảo sự khách quan trong việc bồi thường.
- Thứ hai pháp luật có quy định không gây thiệt hại nhiều cho người có quyền sử hữu đất trong quá trình thương lượng chấp nhận thu hồi đất. Quy trình chấp nhận theo thứ tự là công nhận mục đích, lập biên bản tài sản và đất đai, thương lượng chấp nhận thu hồi.
- Thứ ba biện pháp di dời là một đặc điểm quan trọng. Chế độ này được Nhà nước hỗ trợ tích cực về mọi mặt chính sách bảo đảm sự sinh hoạt của con người, cung cấp đất đai cho những người bị nơi cư trú do thực hiện công trình công cộng cần thiết của Nhà nước. Đây là công việc có hiệu quả lôi cuốn người dân tự nguyện di dời và liên quan rất nhiều tới việc giải phóng mặt bằng. Theo luật bồi thường, nếu như toà nhà nơi dự án sẽ được thực hiện có trên 10 người sở hữu thì phải xây dựng cho các đối tượng, xây cư trú hoặc hỗ trợ 30% giá trị của toà nhà đó. Còn nếu như là dự án xây nhà chung cư thì cung cấp cho các đối tượng này nhà chung cư hoặc nhà ở với giá thấp hơn giá thành. Đối với các đối tác kinh doanh để kiếm sống nhưng có pháp nhân, các đối tác kinh doanh nông nghiệp, gia cầm thì có chính sách mang tính chất ân huệ thì ngoài biện pháp di dời còn ưu tiên cung cấp cho họ các cửa hàng hoặc khu vực kinh doanh.
1.4.2. Chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của các tổ chức tài trợ
Theo ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và các tổ chức phi Chính phủ thì bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng phải đồng thời đảm bảo lợi ích của những người bị ảnh hưởng để họ có một cuộc sống tốt hơn trước về mọi mặt. Trên tinh thần giảm thiểu đến mức thấp nhất các tác động của việc thu hồi đất có chính sách thỏa đáng, phù hợp đảm bảo cho người bị thu hồi đất không gặp bất lợi hay khó khăn trong cuộc sống. Khắc phục cải thiện chất lượng cuộc sống, nguồn sống đối với người bị ảnh hưởng. Để thực hiện được phương châm đó thì trong công tác bồi thường và TĐC phải nhìn nhận con người là trung tâm chứ không phải chính sách bồi thường vật chất. Từ quan điểm đó chính sách bồi thường công bằng là bồi thường ngang bằng với tình trạng như không có dự án được sử dụng bằng giá thay thế, sao cho đời sống của người bị ảnh hưởng sau khi được bồi thường ít nhất phải đạt được ngang mức cũ của họ như trước khi có dự án.
Các biện pháp phục hồi được cung cấp là bồi thường theo giá thay thế nhà cửa và các kết cấu khác, bồi thường đất nông nghiệp là lấy đất có cùng hiệu suất và phải
thật gần với đất đã bị thu hồi, bồi thường đất thổ cư có cùng diện tích được người bị ảnh hưởng chấp nhận, giao đất TĐC với thời hạn ngắn nhất. Đối với đất đai và tài sản được đền bù chính sách của WB và ADB là phải bồi thường theo giá xây dựng mới đối với tất cả các công trình xây dựng và quy định thời hạn bồi thường TĐC hoàn thành trước một tháng khi dự án triển khai thực hiện. Về quyền được tư vấn và tham gia của các hộ bị thu hồi đất, WB và ADB quy định các thông tin về dự án cũng như chính sách bồi thường TĐC của dự án phải thông báo đầy đủ, công khai để tham khảo ý kiến, hợp tác và tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu chính đáng của họ trong suốt quá trình lập kế hoạch bồi thường TĐC cho tới khi thực hiện công tác lập kế hoạch. Kế hoạch giải toả thu hồi đất được thực hiện sau khi đã hội ý với người bị thu hồi đất. Việc lập kế hoạch cho công tác bồi thường TĐC được WB và ADB coi là điều bắt buộc trong quá trình thẩm định dự án. Mức độ chi tiết của kế hoạch phụ thuộc vào số lượng người bị ảnh hưởng và mức độ tác động của dự án. Kế hoạch bồi thường TĐC phải được coi là một phần của chương trình phát triển cụ thể, cung cấp đầy đủ nguồn vốn và cơ hội cho các hộ bị ảnh hưởng. Ngoài ra còn phải áp dụng các biện pháp sao cho người bị di chuyển hoà nhập được với cộng đồng mới. Để thực hiện các biện pháp này, nguồn tài chính và vật chất cho việc di dân luôn được chuẩn bị sẵn.
Một số nguyên tắc giảm thiểu thiệt hại cho những người bị ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án mà WB đang áp dụng tại Việt Nam.
- Mất các phương tiện sản xuất, bao gồm đất đai, thu nhập và sinh kế:
Được đền bù theo giá thay thế, hoặc thay thế những thu nhập và nguồn thu nhập bị mất. Thay thế thu nhập và những chi phí chuyển đổi trong thời gian tái thiết cộng với các biện pháp khôi phục thu nhập trong trường hợp bị mất sinh kế.
- Mất nhà cửa, có thể là mất toàn bộ các cấu trúc và các hệ thống cộng đồng và các dịch vụ:
Được đền bù nhà cửa bị thiệt hại và những tài sản gắn liền với nó theo giá thay thế; các phương án di chuyển, kể cả xây dựng khu TĐC nếu cần; cộng với các biện pháp khôi phục mức sống.
- Mất các tài sản khác:
Được đền bù theo giá thay thế hoặc thay thế.
- Mất các tài nguyên của cộng đồng, môi trường sống tự nhiên, các điểm văn hoa và động sản:
Được thay thế nếu có thể được, hoặc đền bù theo giá thay thế; các biện pháp khôi phục.
1.4.2.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Ngân hàng thế giới (WB)
Hầu hết các dự án được tài trợ bởi vốn vay của ngân hàng thế giới (WB) đều có chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do các dự án này đưa ra. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của tổ chức này có nhiều khác biệt so với luật, quy định, chính sách của nhà nước Việt Nam nên có những khó khăn nhất định, nhưng bên cạnh đó cũng có những ảnh hưởng tích cực tới việc hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu đất của Việt Nam.
Tất cả mọi vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh từ việc thu hồi đất gây ra cho người bị thu hồi đất đều được chính sách của WB quan tâm. Trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì vấn đề tái định cư được WB quan tâm nhiều hơn, hỗ trợ những người bị ảnh hưởng trong suốt quá trình tái định cư, từ việc tìm nời ở mới thích hợp cho một khối lượng lớn chủ sử dụng đất phải di chuyển, tổ chức các khu tái định cư, trợ giúp chi phí vận chuyển, xây dựng nhà ở mới, đào tạo nghề nghiệp, cho vay vốn phát triển sản xuất, cung cấp các dịch vụ.... tại khu tái định cư.
1.4.2.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
Khung chính sách của Ngân hàng phát triển thế giới được xây dựng với mục tiêu tránh việc tái định cư bắt buộc bất cứ khi nào có thể được hoặc giảm thiểu tái định cư nếu không thể tránh khỏi di dân; đảm bảo những người phải di chuyển được giúp đỡ để ít nhất họ cũng đạt mức sống sung túc như lẽ họ sẽ có được nếu không có dự án hoặc tốt hơn.
Với các nguyên tắc cơ bản là:
- Cần tránh hoặc giảm thiểu tái định cư bắt buộc và thiệt hại về đất đai, công trình, các tài sản và thu nhập bằng cách khai thác mọi phương án khả thi.
- Tất cả các hộ đề được quyền đền bù theo giá thay thế cho tài sản, thu nhập và các công việc sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng, được khôi phục đủ để cải thiện hay ít nhất cũng hồi phục được mức sống, mức thu nhập và năng lực sản xuất của họ như trước khi có dự án.
- Trong các trường hợp di chuyển cả một khu vực dân cư phải cố gắng tối đa để duy trì các thể chế văn hóa và xã hội của những người phải di chuyển và của cộng đồng dân cư nơi chuyển đến.
- Việc chuẩn bị các kế hoạch giải phóng mặt bằng (được coi như một phần trong công tác chuẩn bị tiểu dự án) và thực hiện các kế hoạch này sẽ được tiến hành với sự tham gia và tư vấn của những người bị ảnh hưởng.
- Phải hoàn tất việc chi trả đền bù các loại tài sản bị ảnh hưởng và kết thúc di dân tới nơi ở mới trước khi thi công tuyến tiểu dự án.
- Việc đền bù cho người dân tộc thiểu số, hộ gia đình do phụ nữa làm chủ, gia đình có người tàn tật và các hộ dễ bị ảnh hưởng khác sẽ được thực hiện với sự tôn trọng các giá trị văn hóa cũng như sự bảo vệ các nhu cầu riêng biệt của họ.
Khi triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng ADB quan tâm đến hầu hết các vấn đề liên quan đến chủ hộ như nghề nghiệp, thu nhập hàng tháng, nguồn thu nhập của gia đình, số người trong độ tuổi lao động, có trong diện chính sách hay không và cả trình độ học vấn.......cùng tính pháp lý của đất đai, tài sản trên đất.
Về vấn đề tái định cư, mục tiêu chính sách tái định cư của ADB là giảm thiểu tối đa tái định cư và phải bảo đảm cho các hộ bị di chuyển được bồi thường và hỗ trợ sao cho tương lai kinh tế và xã hội của họ được thuận lợi tương tự trong trường hợp không có dự án.
1.4.3. Công tác bồi thường GPMB ở Việt Nam
1.4.3.1. Thời kỳ 1988 - 1993
- Luật Đất Đai năm 1987 được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1987 và có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 1988. Luật này không thừa nhận giá trị đất cũng như giá trị của quyền sử dụng đất, không được tự do chuyển quyền sử dụng đất theo nhu cầu của thị trường. Nhà nước quyết định thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp có nhu cầu sử dụng đất của
Nhà nước hoặc của xã hội (Điều 14). Người được giao đất có nghĩa vụ phải đền bù thiệt hại thực tế cho người có đất bị thu hồi, bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất (Điều 48). Người đang sử dụng đất mà bị Nhà nước thu hồi do nhu cầu của Nhà nước hoặc của xã hội thì được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khác (Điều 49).Ngày 31 tháng 5 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 186-HĐBT về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, trong Quyết định này có quy định mọi tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào các mục đích khác phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng mà người được Nhà nước giao đất phải nộp được điều tiết về ngân sách Trung ương 30%, còn lại 70% thuộc ngân sách địa phương để sử dụng vào việc khai hoang, phục hoá, cải tạo đất nông nghiệp và định canh, định cư cho nhân dân vùng bị lấy đất. Người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi chỉ được bồi thường thiệt hại tài sản trên đất và tài sản trong lòng đất.
- Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1993 và có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 (thay thế Luật Đất đai 1987). Với quy định “đất có giá” và người sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ, đây là sự đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác bồi thường, GPMB của Luật Đất đai năm 1993. Tại Điều 27 Luật Đất đai năm 1993 đã quy định “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại” và sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994, quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tiếp đến năm 1998 chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Nghị định 90/CP được thay thế sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn tại Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Chính sách bồi thường, GPMB theo quy
định của Nghị định số 22/1998/NĐ-CP được áp dụng chung cho mọi trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất. Đây là một điểm khác so với Nghị định số 90/CP và người sử dụng đất được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất có trách nhiệm đền bù thiệt hại về đất và tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao hoặc cho mình thuê.
1.4.3.2. Thời kỳ 2003 - 2013
Luật Đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 (thay thế Luật Đất đai 1993), đầy đủ hơn về các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất; để hướng dẫn quy định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai, ngày 03 tháng 12 năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất [7](thay thế cho chính sách đền bù quy định tại Nghị định số 22/1998/NĐ-CP) đã quy định toàn diện hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn về chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế và từ năm 2004 đến nay để phục vụ yêu cầu củng cố an ninh, quốc phòng bảo vệ tổ quốc và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện thêm chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trong các Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 [10], Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 và Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ.
1.4.3.3. Từ khi có Luật Đất đai 2013
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thi hành Luật Đất đai và xuất phát từ yêu cầu của giai đoạn mới. Luật Đất đai sửa đổi đã thể chế hóa đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân.
Luật đất đai năm 2013 là luật có phạm vi điều chỉnh bao quát nhất, thể hiện đầy đủ nhất hơi thở của cuộc sống so với các Luật Đất đai đã ban hành trước đó. Luật có rất nhiều nội dung mới, trong đó đáng chú ý tập trung vào các vấn đề đang đặt ra trong quản lý sử dụng đất đai sau: