dưỡng chu đáo về kiến thức chuyên môn, am hiểu thị trường, pháp luật chuyên
môn hóa trong thẩm định từng ngành nghề và từng đối tượng khách hàng. Cần
kiên quyết loại bỏ các cán bộ yếu về tư cách đạo đức, không trung thực và cho thôi việc hoặc thuyên chuyển sang các bộ phận khác nếu cần nhằm phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng.
Về công tác đào tạo, đánh giá
Tiếp
tục
đổi mới
công tác đánh giá cán bộ trong toàn hệ thống thông qua
việc hoàn thành cơ bản hệ thống khung bộ chỉ tiêu KPI các vị trí tại Chi nhánh; bộ chỉ tiêu KPI của các vị trí tại Ban/Trung tâm Trụ sở chính; Xây dựng dự thảo Quy chế Đánh giá cán bộ theo KPI; Triển khai đổi mới Quy chế Tiền lương, kiện toàn Thỏa ước Lao động tập thể.
Thường xuyên hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chủ yếu vào các chương trình đào tạo kiến thức, kỹ năng quản lý, kỹ năng làm việc cho lãnh đạo các cấp và cán bộ trong toàn hệ thống ngân hàng nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu cung cấp các sản phẩm dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Bên cạnh việc đào tạo trong nội bộ, các NHTMCP Việt Nam cần phối hợp với các đơn vị bên ngoài triển khai các khóa đào tạo như: chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng ngắn hạn do NHNN phối hợp Cơ quan Chuyển giao công nghệ tài chính Luxembourg tổ chức, đào tạo cao
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Hoàn Thiện Chiến Lược Và Chính Sách Tín Dụng
- Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Soát Nội Bộ Và Quản Lý Khoản Vay
- Nhóm Giải Pháp Từ Ngân Hàng Nhà Nước
- Kiến Nghị Với Ủy Ban Giám Sát Tài Chính Quốc Gia
- Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (2017), Chỉ Thị Số 02/ctnhnn Của Nhnn Về Việc Thực Hiện Chính Sách Tiền Tệ Và Đảm Bảo Hoạt Động Ngân Hàng An Toàn, Hiệu
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
cấp
lý luận
chính trị,
bồi
dưỡng
kiến
thức
an ninh quốc
phòng. Các ngân hàng
thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn tại ngân hàng và các trung tâm đào tạo khác có uy tín như Viện đào tạo ngân hàng, tham gia các cuộc hội thảo, học tập nghiên cứu thêm về các kiến thức pháp luật, ngoại ngữ, phân tích thị trường, các lớp đào tạo về chăm sóc khách hàng, khuyến khích và hỗ trợ kinh phí cho các cán bộ tham gia đào tạo sau đại học và các lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ ngắn hạn khác đồng thời phối hợp với các ngân hàng nước ngoài để cử cán bộ tham gia đào tạo học hỏi kinh nghiệm.... giúp nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý nghiệp vụ cho các cán bộ, ứng dụng phù hợp vào thực tiễn công tác tại các đơn vị. Các cán bộ tham gia trực tiếp hoạt động cho vay cần phải đảm bảo các kỹ năng như: kỹ năng phục vụ chăm sóc khách hàng, kỹ năng tìm hiểu thông tin, kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng suy diễn....
Công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ
Tại các NHTMCP Việt Nam, công
tác quy hoạch cần
được
tiến
hành bài
bản, đúng các quy định của Đảng và Nhà nước trên nguyên tắc tập trung dân chủ; việc quy hoạch mang tính chất mở và động vẫn được duy trì và triển khai tốt. Danh sách quy hoạch đã được bổ sung, điều chỉnh trên cơ sở theo sát sự phát triển của cán bộ, loại khỏi danh sách quy hoạch những cán bộ không còn đủ điều kiện, tiêu chuẩn, không có triển vọng phát triển, bổ sung vào danh sách những nhân tố mới triển vọng… Gắn liền với công tác quy hoạch là công tác bổ nhiệm cán bộ. Ngân hàng cần tiếp tục triển khai việc kiện toàn đội ngũ lãnh đạo cấp cao, đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Các TCTD và các văn bản hướng dẫn về tổ chức, hoạt
động của NHTM cổ phần.
Công tác bổ nhiệm
lãnh đạo các cấp
được
tiến hành
đúng quy định, quy trình. Vì vậy, cán bộ được bổ nhiệm là các cán bộ gương mẫu, uy tín tiêu biểu trong lĩnh vực công tác, sau khi bổ nhiệm phát huy vai trò của cán bộ chủ chốt nên đã tăng cường được cả lượng và chất cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của Trụ sở chính và của hệ thống.
Công tác thi đua khen thưởng
Các NHTMCP Việt Nam duy trì và phát triển các phong trào thi đua gắn với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ tín dụng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các đơn vị. Công tác khen thưởng đảm bảo kịp thời, chính xác, đúng người, đúng việc, đúng thành tích, phát huy tối đa khả năng và sự sáng tạo của toàn thể cán bộ, nhân viên và người lao động, phấn đấu góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, đóng góp tích cực vào thành công chung của hệ thống ngân hàng. Công tác thi đua khen thưởng nhằm tạo động cơ thúc đẩy làm việc của CBNV, khuyến khích họ luôn tích cực cố gắng hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được phân công.
3.2.7 Xây dựng hệ thống công nghệ ngân hàng, thông tin tín dụng
Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính cho thấy, yếu tố công nghệ ngân hàng, thu thập thông tin có tác động mạnh đến chất lượng tín dụng. Trên thực tế cho thấy, nếu công nghệ ngân hàng không hiện đại, thông tin không được thu thập đầy đủ, xử lý thông tin không chính xác sẽ dẫn đến việc cho vay không đúng đối tượng, xác định kỳ hạn và số tiền vay không chính xác từ đó làm giảm chất lượng khoản vay. Do đó, cần thiết phải nâng cao công nghệ ngân hàng, chất lượng
thu thập và xử lý thông tin trong quản lý chất lượng tín dụng với các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất: Ưu
tiên phát triển
chiến
lược
Ngân hàng số một
cách toàn diện
trên tất cả các mặt hoạt động kinh doanh, quy trình, sản phẩm, kênh phân phối phù hợp với xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó tập trung vận hành Trung tâm Ngân hàng số tại ngân hàng TMCP Việt Nam gắn với các cơ chế đặc thù về tài chính, nhân sự…, tập trung nguồn lực đẩy nhanh các dự án công nghệ nền tảng làm cơ sở phát triển ngân hàng số, đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin.
Để phòng ngừa và hạn chế các rủi ro hệ thống CNTT, cùng với việc phát triển nguồn nhân lực CNTT hợp lý, các NHTMCP Việt Nam cần không ngừng đầu tư trang thiết bị, xây dựng một hệ thống CNTT hoàn chỉnh như: Nâng cấp hệ thống tường lửa, hệ thống IPS/IDS với công nghệ mới nhất cho mạng WAN/LAN; Trang bị hệ thống phòng chống virus có bản quyền, được cập nhật thường xuyên và dùng cho toàn hệ thống ngân hàng; Trang bị hệ thống để thực hiện kiểm soát truy cập mạng LAN trên toàn hệ thống nhằm nâng cao khả năng bảo mật cho hệ thống; Xây dựng trung tâm phục hồi thảm họa theo chuẩn quốc tế; Hệ thống lưu trữ cũng như các chính sách an ninh, bảo mật, an toàn hệ thống để giảm thiểu những rủi ro từ hoạt động CNTT. Các ngân hàng cần có Trung tâm dự phòng sử dụng hệ thống máy chủ dự phòng và công nghệ lưu trữ với các giải pháp tiên tiến nhất, đảm bảo hoạt động của Ngân hàng liên tục kể cả khi xảy ra các thảm họa về thiên tai và các thảm họa khác.
Mặt khác, công tác quản trị và vận hành các hệ thống CNTT, đặc biệt là công tác an ninh bảo mật, an toàn thông tin tại ngân hàng cần được quan tâm, chú trọng và giám sát, kiểm soát chặt chẽ 24/24 theo hệ thống quy trình, quy định được ban hành và định kỳ rà soát, cập nhật. Các phương án, kịch bản xử lý dự phòng rủi ro trong các trường hợp phát sinh sự cố CNTT cũng cần được triển khai xây dựng và tổ chức diễn tập định kỳ, đồng thời phản ứng kịp thời với các sự kiện bảo mật, an toàn thông tin từ bên ngoài, đảm bảo yếu tố dự phòng vận hành liên tục, giúp hệ thống CNTT hoạt động ổn định và an
Thứ hai, các ngân hàng cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu chứa đựng những thông tin phong phú bổ ích tạo điều kiện cho mọi CBTD có thể truy cập để
phục vụ tốt nhất cho công việc được giao. Hệ thống thông tin tín dụng phải được
tổ chức thành mạng lưới thống nhất từ trung ương đến cơ sở theo hình thức tập
trung kết hợp với phân tán. Toàn bộ thông tin tín dụng của KH truyền thống cũng
như KH tiềm năng có hay không có quan hệ với
bất
cứ Sở giao dịch,
chi nhánh
nào đều
được
tập
hợp
và lưu
trữ tại
Trung tâm thông tin tín dụng
của từng
ngân hàng
Thứ ba, các ngân hàng cần có một bộ phận chuyên trách nhằm đảm nhận
việc thu thập và phân tích thông tin, cập nhật hàng ngày các thông tin về KH có
quan hệ với
NH, thông tin kinh tế,
thị trường,
pháp luật,
các chỉ thị văn bản
hướng dẫn từ cấp trên có liên quan phục vụ trực tiếp cho công tác tín dụng. Các cán bộ này sẽ thu thập thông tin từ nhiều nguồn: thông tin do CBTD cung cấp, thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN, thông tin từ khách hàng hoặc do cán bộ tự thu thập từ đài, báo chí, từ các cơ quan tổ chức khác nhau...Báo cáo thường niên là một trong những công cụ để NH truyền thông thông tin đến nhà đầu tư, những người quan tâm muốn tìm hiểu tình hình hoạt động của NH. Vì vậy, nội dung của báo cáo thường niên cần thể hiện rõ các chỉ số cần thiết về hoạt động TD của NH như dư nợ, cơ cấu dư nợ, nợ xấu, thu nhập lãi… và các chỉ số an toàn theo quy định của NHNN. Bên cạnh đó, các NH cần đính kèm báo cáo
kết
quả hoạt
động kinh doanh và thuyết
minh báo cáo tài chính nhằm
thể hiện
rõ sự minh bạch của thông tin mà NH đã cung cấp.
Thứ tư, thông tin về khách hàng: Hiện nay CBTD khai thác thông tin về
KH dựa
trên báo cáo tài chính, trong khi báo cáo tài chính do KH lập
thường
không qua kiểm toán, không có cơ quan chức năng xác định tính trung thực của
báo cáo. Một vấn đề cần chú ý là thông tin về DN có quan hệ với NH (Bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,...) rất có thể là có các thông tin sai lệch. Trong điều kiện hiện nay khi việc bắt buộc các DN
thực
hiện
kiểm
toán và công khai quyết
toán còn chưa
được
tuân thủ theo quy
định của nhà nước do nhiều nguyên nhân khác nhau thì các ngân hàng TMCP Việt
Nam cũng phải có đối sách thích hợp để đảm bảo thông tin thu nhận được từ DN
là chính xác. Các ngân hàng nếu đề ra qui định bắt buộc
các DN phải thực
hiện
kiểm toán trước khi vay vốn NH thì có lẽ sẽ tạo ra rào cản đối với KH, KH sẽ
tìm đến các NH khác với các qui định thuận lợi, dễ dàng hơn. Do vậy, các ngân
hàng có thể tiến hành tuyển chọn một số nhân viên kiểm toán chuyên nghiệp vào
làm việc tại NH. Các cán bộ thẩm định khi có nghi ngờ, khúc mắc về tính chính
xác của
số liệu
mà DN cung cấp
hoặc
trong trường hợp các món vay lớn, phức
tạp thì các nhân viên kiểm toán này sẽ tiến hành trực tiếp kiểm toán. Khi thu thập
thông tin về thị trường,
CBTD còn phải
khai thác thông tin mang tính chất
thị
trường về sản phẩm KH kinh doanh như: tình hình cung cầu, giá cả, cạnh tranh,
đặc biệt là thị trường bất động sản, thị trường các mặt hàng xuất nhập khẩu…
Thông tin trong nước
và thị trường
quốc
tế, sự
ổn định
hay thay đổi
về chính
sách xuất nhập khẩu nói chung. Đối với
một
ngành cụ thể,
cần
có các thông tin
và phân tích cơ cấu
ngành thông qua các biến
số như:
năng lực
sản
xuất
của
ngành, ảnh hưởng của người mua, của nhà cung ứng vật tư, các khó khăn cản trở việc xâm nhập thị trường, mối đe doạ của các sản phẩm thay thế, tình hình đầu
tư của
nước
ngoài đối
với
ngành; chính sách của
Chính phủ đối
với
ngành, xu
hướng
phát triển
của
ngành. Việc
thu thập
thông tin và phân tích cơ cấu ngành
rất có ích trong việc phán quyết đầu tư và được các ngân hàng trên thế giới áp
dụng. Sau khi thu thập được các nguồn thông tin, CBTD phân tích xử lý thông tin, cần phải sàn lọc, phân tích thông tin giúp ban lãnh đạo NH đưa ra các quyết định chính xác và kịp thời về cho vay hay chiến lược cho vay cũng như hoàn thiện các quy định cho vay.
Thứ
năm,
các NHTMCP Việt Nam
xây dựng
hệ thống
thông tin quản lý
RRTD, đảm bảo cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động TD chính xác và thường xuyên cập nhật giúp cho nhà lãnh đạo NH quản lý hiệu quả hoạt động TD, hạn chế tổn thất. Vì vậy, hệ thống thông tin quản lý RRTD bao gồm hai loại thông
tin: (1) Thông tin vĩ mô gồm: môi trường kinh tế, chính sách kinh tế nhà nước, văn
bản quy phạm pháp luật; (2) Thông tin phục vụ quản lý hoạt động tín dụng của NH bao gồm: báo cáo trực trạng tín dụng, dự báo xu hướng phát triển tín dụng, báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng. Việc xây dựng một hệ thống thông tin phục vụ hoạt
động tín dụng không chỉ đòi hỏi
sự nỗ lực
cố gắng
của
các ngân hàng mà còn
phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ từ NHNN. Các ngân hàng cần phải tạo lập một
kho dữ liệu phong phú, đầy đủ, chính xác, tạo "vốn thông tin" cơ bản. Với sự góp
sức
của
nhiều người,
nhiều
tổ chức
thì chất lượng
thông tin mới trở nên phong
phú và hữu toàn.
ích, đảm bảo cho việc hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng, an
3.3 Các giải pháp điều kiện và hỗ trợ khác
3.3.1 Nhóm giải pháp từ Nhà nước
Một là: dụng
Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến hoạt động tín
Trong giai đoạn vừa qua, hệ
thống ngân hàng
thương mại cổ
phần Việt
Nam vẫn đang tái cơ cấu và sẽ có những biện pháp cụ thể hơn trong thời gian tới nhằm lành mạnh hóa trong hoạt động ngân hàng. Thực tế việc lợi dụng các khe hở của pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra phổ biến khi chưa có hệ thống kiểm soát một cách hiệu quả, nhiều vụ án ngân hàng đã diễn ra gần đây gây mất niềm tin đối với nhân dân. Khi các vụ việc xảy ra phần lớn do vụ lợi cá nhân làm lũng đoạn thị trường tài chính ngân hàng nhưng cũng có việc các cá nhân đã lợi dụng những quy định của pháp luật chưa chặt chẽ để tham nhũng với số tiền đặc biệt lớn. Hay việc mở rộng tín dụng ồ ạt tập trung vào kinh doanh bất động sản, cho vay các dự án giao thông BOT trong thời gian qua cũng là cảnh báo cho hoạt động ngân hàng khi mà chính sách đối với các lĩnh vực này vẫn còn đang hoàn thiện.
Đối với lĩnh vực cho vay, trong thời gian vừa qua, môi trường pháp lý cho hoạt động cho vay đã được hoàn thiện theo hướng đầy đủ rõ ràng chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, những văn bản trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng cho vay của các NHTM, tuy nhiên để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa thì Chính phủ, các bộ ngành trung ương địa phương cần rà soát lại các văn bản pháp luật về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản từ đó phối hợp xây dựng các văn bản hướng dẫn kịp thời đồng bộ, quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến phát mại tài sản như: quyền và nghĩa vụ của ngân hàng của các cơ quan ban ngành có liên quan, các văn bản pháp luật khác về cho vay…
Xử lý vướng mắc trong triển khai Nghị quyết 42/2017/QH14
Thứ nhất, nhiều bộ, ngành, địa phương triển khai Nghị quyết 42 còn chưa đầy đủ dẫn đến không thống nhất trong cách xử lý thủ tục thu hồi nợ xấu cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Trong đó có thủ tục hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận phần diện tích đất trên đất chênh lệch so với giấy chứng nhận và diện tích
đất thế
chấp ngân hàng. Cụ
thể
như
thời điểm DN vay vốn thế
chấp 1 ha đất,
nhưng đến khi rơi vào nợ xấu số đất trên là 1,2 ha. Nguyên do chủ đất đã mua thêm, nhưng phần mua thêm chưa phải đất thổ cư nên chính quyền cơ sở không chứng nhận cho ngân hàng thu hồi tài sản đảm bảo vì còn có phần đất nông nghiệp dính vào tài sản đảm bảo nợ vay.
Thứ
hai,
các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế
chấp của các ngân hàng
thương mại cổ phần trước đây gần như không thể hiện được nội dung thỏa thuận cụ thể quyền thu giữ tài sản đảm bảo hoặc có thỏa thuận nhưng sử dụng các thuật ngữ chung chung như NH được quyền phát mãi, quyền định đoạt… trong khi chưa có văn bản hướng dẫn nội dung quyền thu giữ tài sản đảm bảo được hiểu như thế nào là đầy đủ. Mặt khác việc áp dụng quyền thu giữ tài sản còn rất nhiều hạn chế, như tài sản đảm bảo cho bên thứ ba thuê, khi thu giữ sẽ phát sinh tranh chấp liên quan đến bên thuê là nhà đất. Ngoài ra, đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về thủ tục sang tên tài sản đảm bảo là phương tiện giao thông trong trường hợp bên bảo
đảm không hợp tác chuyển quyền sở nhượng tài sản đảm bảo.
hữu cho bên mua hoặc bên nhận chuyển
Thứ ba, việc bán nợ xấu và tài sản đảm bảo, Nghị quyết 42 không điều chỉnh giá thị trường được xác định trên cơ sở nào, đơn vị nào đủ năng lực, thẩm quyền
xác định giá trị
thị
trường. NHTMCP có được tự
xác định giá trị
thị
trường của
khoản nợ, giá thỏa thuận của các bên mua bán có được xem là giá thị trường không
Như vậy, Nhà nước và chính phủ cần có hướng dẫn cụ thể về việc tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho các NHTMCP có quyền thu giữ tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật. Trong đó, giải thích rõ thỏa thuận về quyền thu giữ tài sản đảm bảo theo hợp đồng bảo đảm là như thế nào để có cơ sở cho ngân hàng áp dụng đúng quy định.
Hai là: Phát triển thị trường mua bán nợ cạnh tranh.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy mua, bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam, xử lý được nợ xấu sẽ
ổn định
tài chính trong nước và
nâng cao sức
cạnh
tranh cho các định
chế tài chính. Nhiều nhà quản lý cho rằng
nếu không có thị trường mua bán nợ thì Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
quốc
gia sẽ trở thành độc
quyền.
Do đó, sẽ dẫn
đến
hàng loạt
các vấn
đề về
tính minh bạch, về lợi ích nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêu cực,...Việc phát triển
thị trường mua bán nợ là hướng đi tích cực vì nợ xấu cũng là một “hàng hoá”,
đây là cách thức để tạo ra một hạ tầng trong xã hội để có điều kiện ứng phó với
khủng
hoảng
nợ xấu
trong tương
lai. Để phát triển
thị trường
mua bán nợ, có
hai cấp độ thị trường, sơ cấp và thứ cấp: Sơ cấp là trực tiếp giao dịch giữa một
bên là NHTM với các tổ chức xử lý nợ; thứ cấp là mua bán giữa các nhà đầu tư
với nhau trên thị trường thứ cấp. Hai phạm trù khác nhau và cơ chế chính sách để thúc đẩy thị trường đó cũng khác nhau.
Việc
xử lý nợ xấu
ở Việt
Nam nên kết
hợp
mô hình xử lý nợ xấu
tập
trung và phát triển
thị trường
mua bán nợ để làm sao xã hội
hoá nguồn
cầu
trong đầu tư nợ xấu của Việt Nam. Nhà nước cũng cần có cơ chế để phát triển
thị trường mua bán nợ sơ cấp. Bởi nếu không có chế tài của NHNN để ép các NHTMCP phải có trách nhiệm hơn trong xử lý nợ xấu, họ vẫn để nợ xấu từ từ
xử lý. NHNN có thể đưa
ra qui định
trong vòng bao nhiêu năm đó, nếu NH
không giảm được tỷ lệ nợ xấu thì không được mở rộng hoạt động, yêu cầu trích
lập dự phòng trên 100%. Thực
tế có những
quốc
gia trên thế giới
yêu cầu
trích
lập dự phòng 150% 250%. Để thị trường mua bán nợ hình thành tại Việt Nam,
cần phát triển các công ty chuyên mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các thành
phần kinh tế.
Tiếp
đó, phải
có hệ thống
pháp luật,
cơ chế chính sách vĩ mô
tạo
hành lang cho thị trường vận hành trôi chảy như những thị trường khác.
Hiện tại hành lang pháp lý để vận hành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam
còn nhiều hạn chế, như chủ thể tham gia thị trường bị giới hạn theo quy định của
pháp luật, việc thu giữ và phát mại tài sản bảo đảm gặp nhiều vướng mắc pháp lý, quyền và trách nhiệm của người mua, bán nợ chưa được quy định rõ ràng. Hiện nay, việc mua bán nợ ngoài VAMC chỉ có Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC)