Các Nhân Tố Tác Động Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại



có chức năng ban hành các chính sách chế độ hoặc đề ra các biện pháp nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có hiệu quả.

- Hội đồng tín dụng được thành lập nhằm hỗ trợ Ban giám đốc trong việc cung ứng sản phẩm đến khách hàng. Nhiệm vụ của bộ phận này xét duyệt giới hạn tín dụng, xét duyệt các khoản vay vượt mức phán quyết của Giám đốc hoặc khoản vay phức tạp cần thẩm định, đánh giá lại.

-Sử dụng một số mô hình đánh giá tín nhiệm tín dụng đối với khách hàng vay vốn tại NHTM:

Trong hoạt động tín dụng NHTM, nhận biết những dấu hiệu không có khả năng thanh toán của khách hàng là cần thiết cho công tác quản trị rủi ro tín dụng. Hiện nay, đã có nhiều mô hình nghiên cứu về vấn đề này cả định tính và định lượng. Tuy nhiên chưa có nhiều mô hình phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến xếp hạng tín dụng khách hàng pháp nhân tại NHTM Việt Nam trên cơ sở tiếp cận mô hình định lượng. Căn cứ về các yếu tố xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM thì thấy, thứ hạng tín dụng của một doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Nên việc tìm ra những yếu tố nào đó có ảnh hưởng ít hay nhiều đến khả năng mà khách hàng pháp nhân rơi vào thứ hạng tín dụng nào đó tại mỗi NHTM là cần thiết. Từ đó, cán bộ tín dụng có thêm căn cứ đánh giá được thứ hạng tín dụng của khách hàng dựa vào thông tin thu thập về doanh nghiệp trong thẩm định cho vay một cách nhanh chóng. Thông qua giới thiệu một số mô hình phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến xếp hạng tín dụng khách hàng pháp nhân tại NHTM, nhằm giải quyết vấn đề nói trên.

CLTD của NHTM chịu tác động của các nhân tố định tính và định lượng. Trong những nhân tố định tính đó thì nhân tố mức độ tín nhiệm (khả năng trả nợ) của khách hàng pháp nhân ảnh hưởng đến CLTD của NHTM. Vì vậy, đã có những mô hình xây dựng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng từ đó hỗ trợ trong việc ra quyết định cho vay và theo dõi khoản vay của khách hàng trong thời hạn vay góp phần nâng cao CLTD của NHTM. Hiện nay có hai mô hình đo lường khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn tại NHTM đó là: Mô hình chấm điểm (mô hình định tính) và mô hình định lượng.



- Mô hình chấm điểm: Đây là mô hình đánh giá khách hàng vay vốn (khoản vay) theo phương pháp phân tích tín dụng cổ điển của cán bộ tín dụng về chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để xếp hạng tín dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

- Mô hình điểm số Z: Mô hình này do Altman xây dựng được sử dụng để xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp. Mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng được các ngân hàng Mỹ dùng để đo lường xác suất vỡ nợ của khách hàng là các công ty sản xuất. Ở Mỹ người ta sử dụng mô hình điểm số Z (Z– credit scoring model) do E.L.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với công ty sản xuất của Mỹ. Mô hình này dùng để đo xác suất vỡ nợ của khách hàng thông qua các đặc điểm cơ bản của khách hàng. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào các yếu tố tài chính của người vay.

- Mô hình phân lớp: Mô hình phân lớp là một trong những bài toán được quan tâm rất sớm trong lịch sử. Từ xa xưa người ra đã tiến hành phân lớp trong mọi lĩnh vực. Trong trường hợp tổng thể chỉ có một đặc trưng việc phân lớp hoàn toàn hình thành tự động hay theo một quan điểm chủ quan nào đó. Khi mỗi cá thể của tổng thể có quá nhiều đặc trưng nhất là có nhiều đặc trưng mới mà chúng ta không thể hiểu cặn kẽ. Các phương pháp khác nhau giải quyết bài toán phân lớp khách quan, không phụ thuộc vào các quan điểm chủ quan mà chỉ phụ thuộc vào chính sự biểu biện của các cá thể trong quá trình vận động của chúng. Ý tưởng cơ bản của mô hình này các cá thể c các đặc trưng giống nhau sẽ có những hành vi giống nhau. Có thể vận dụng mô hình này để phân chia các khách hàng vay vốn của một tổ chức tín dụng thành một số lớp sao cho các cá thể trong mỗi lớp có đặc điểm giống nhau hơn các cá tểh khác lớp. Dựa trên kết quả này có thể xếp các cá thể cùng lớp vào một hạng tín nhiệm (theo một chỉ tiêu nào đó như khả năng trả nợ). Thông thường kết quả của mô hình phân lớp phụ thuộc vào chất lượng của nguồn thông tin, nhất là thông tin định tính.

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 5

- Mô hình Logistic: Mô hình Logistic cũng có nhiều ưu điểm như mô hình Altman, ngoài ra mô hình này cho ph p tính được khả năng vỡ nợ đối với từng khoản vay.



- Biện pháp đảm bảo tiền vay: Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.

Bảo đảm tiền vay được xem là công cụ để quản lý rủi ro tín dụng của NHTM, góp phần nâng cao CLTD. Khi khách hàng đi vay vốn ngân hàng phải yêu cầu đảm bảo tiền vay sẽ nâng cao được trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ và phòng ngừa gian lận của khách hàng. Khi tài sản được thế chấp, cầm cố tại NHTM thì người vay sẽ bị mất nó nếu khoản vay của họ gặp rủi ro, dẫn đến tình trạng phá sản. Tuy nhiên tài sản đảm bảo mới chỉ là điều kiện cần chưa phải là điều kiện đủ để ngân hàng xem xét cho vay, vì giá trị tài sản thế chấp phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, yếu tố công nghệ, tính pháp lý của tài sản…nên biến động rất lớn và tính thanh khoản không cao. Giá trị tài sản đảm bảo được khấu trừ khi trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, cụ thể cho từng khoản vay theo chuẩn mực quốc tế cũng như của Việt Nam.

- Kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng: Một trong các cấu phần của rủi ro tín dụng là rủi ro đạo đức. Để hạn chế rủi ro đạo đức, người ta thường giám sát để khách hàng vay vốn không đầu tư rủi ro bằng món tiền của ngân hàng cho vay. Ngân hàng thường kiểm tra giám sát vốn vay sau khi giải ngân, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng theo định kỳ.

- Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và công tác xử lý nợ xấu:

Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro: Việc phân loại các khoản vay thành các nhóm khác nhau dựa trên đánh giá về mức độ rủi ro của khoản vay giúp cho NHTM đánh giá được đúng chất lượng của khoản vay đang thực hiện và ngân hàng xác định được mức dự phòng cần phải trích lập cho các khoản vay có dấu hiệu suy giảm giá trị và khả năng thu hồi. Trên cơ sở số tiền dự phòng rủi ro đã được trích lập sẽ giúp cho NHTM chủ động đối phó được với những rủi ro tín dụng nếu xảy ra, không gây biến động lớn trong hoạt động cũng như tình hình tài chính cho ngân hàng. Việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế là một thay đổi lớn trong hoạt động của các TCTD Việt Nam, nhằm hướng hoạt động của các NHTM Việt Nam đến gần với các chuẩn mực quốc tế.



Công tác xử lý nợ xấu: Cho đến nay lãi từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh đối với nhiều NHTM, chiếm trên 70% lợi nhuận trước thuế của ngân hàng. Nhưng rủi ro trong hoạt động tín dụng thì vẫn là nguy cơ thường trực đối với các ngân hàng. Vì vậy, thực hiện có hiệu quả và đồng bộ các biện pháp xử lý nợ xấu, thu hồi nợ đọng…được xem là chiến lược quan trọng trong nâng cao năng lực tài chính, phát triển ổn định và vững chắc của mỗi NHTM.

1.2.5. Các nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.2.5.1. Nhân tố h h qu n

-Nhóm nhân tố môi trường vĩ mô

– Môi trường pháp lý– chính sách của đảng, nhà nước


Hoạt động ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế nói chung muốn có hiệu quả thì cần phải có hệ thống pháp lý đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm theo hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, pháp luật đã tạo ra môi trường pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện, việc thiếu các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng cũng tạo nên các vấn đề rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng. Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng chấp hành luật pháp một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn, đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng.

Các quy định pháp lý đối với hoạt động của NHTM có ảnh hưởng rất lớn đến phương hướng và kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Những quy định này có thể kể đến, đó là lãi suất, tài sản thế chấp và cách thức xử lý tài sản, phương thức xử lý đối với những rủi ro ngân hàng gặp phải. Những biến động bất thường về lãi suất, tỷ giá sẽ gây ra những rủi ro lớn đối với cả ngân hàng và khách hàng,



ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng đối với ngân hàng.

Xã hội hóa hoạt động ngân hàng, biến NHTM thành người bạn tin cậy của mọi tổ chức, cá nhân, đơn vị trong nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho NHTM có thế mạnh riêng của mình để tăng cường sức cạnh tranh trước những NHTM khác. Hợp pháp hóa hoạt động ngân hàng là cơ sở đảm bảo cho ngân hàng hoạt động theo pháp luật, tạo môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để hoạt động cho vay được an toàn, có hiệu quả.

Môi trường inh tế hội


Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay của ngân hàng. Những biến cố như suy thoái kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế đều ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, muốn xã hội tồn tại và phát triển đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng, nhưng khi tăng trưởng thường làm cho lạm phát tăng lên. Nếu chúng ta quản lý không tốt để lạm phát ở con số quá cao, ngân hàng sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá và như vậy CLTD sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra, chính sách ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực kinh tế để đảm bảo sự phát triển cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới CLTD.

Nguồn vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng đến CLTD. Phần lớn các nước kém phát triển hoặc đang phát triển đều tìm mọi cách khai thác, huy động nguồn vốn từ nước ngoài (FDI, ODA, kiều hối..) để đầu tư. Việc tăng lên của nguồn vốn từ nước ngoài sẽ làm tăng tổng cầu trong nên kinh tế trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng theo không kịp sẽ làm mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế gây nguy cơ lạm phát. Mặt khác, do hệ thống ngân hàng chưa phát triển, năng lực quản trị điều hành hoạt động ngân hàng còn hạn chế, tình trạng “đô la hóa” chưa kiểm soát được, luồng tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước trở thành phương tiện thanh toán, gây sức ép lạm phát. Như vậy nếu không có sự quản lý tốt, chặt chẽ đối với nguồn vốn từ nước ngoài thì sẽ gây nguy cơ lạm phát và tác động xấu đến hoạt động tín dụng của các NHTM trong nước.



Con người là cái gốc của xã hội, để xã hội tồn tại và phát triển phải có hoạt động của con người. Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, con người có trình độ nhận thức và quan niệm về đạo đức khác nhau. Đối với hoạt động ngân hàng thì vấn đề đạo đức và trình độ dân trí đều rất được coi trong. Bởi đạo đức có liên quan tới CLTD trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do trình độ dân trí chưa cao k m hiểu biết nên không hiểu đúng, đủ pháp luật và bản chất hoạt động của ngân hàng để từ đó khách hàng có trách nhiệm trả đúng, trả đủ nợ gốc và lãi vay.

– Nhân tố vĩ mô hách quan hác


Tác động tiêu cực của môi trường thiên nhiên như lũ lụt, hỏa hoạn, biến đổi khí hậu và khủng hoảng kinh tế dẫn đến biến động của thị trường trong và ngoài nước.

Tóm lại, hoạt động cho vay chịu tác động rất lớn từ môi trường, bao gồm cả môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường chính trị, xã hội. Chất lượng cho vay không chỉ được quyết định bởi bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc lớn vào khách hàng và những yếu tố từ môi trường. Vì vậy để nâng cao chất lượng cho vay của các NHTM phải có sự phối hợp tổng thể, chặt chẽ từ tất cả các phía.

-Nhóm nhân tố thuộc về hách hàng

– Đạo đức của hách hàng


Là việc khách hàng cố tình vi phạm các cam kết với ngân hàng. Khi đó nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ bị phá bỏ nếu đạo đức của khách hàng và các ràng buộc chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức dẫn đến việc phát sinh các khoản nợ xấu cho ngân hàng.

– Phương án inh doanh của hách hàng


Bản chất của kinh doanh luôn ẩn chứa các rủi ro do chủ quan hay một số nguyên nhân không thể kiểm soát được. Khi các phương án kinh doanh được ngân hàng tài trợ gặp khó khăn thì khả năng trả nợ ngân hàng bị đe dọa. Khó khăn tạm thời về dòng tiền của khách hàng làm chậm trễ kỳ thanh toán sẽ ảnh hưởng đến kế



hoạch thanh khoản của ngân hàng. Trầm trọng hơn, khi kinh doanh bị mất vốn, khách hàng không trả được nợ gây ra các khoản nợ khó đòi của ngân hàng.

– Năng lực và kinh nghiệm quản lý điều hành của hách hàng


Điều kiện tín dụng mà ngân hàng đưa ra nhằm tiêu chuẩn hóa khả năng của khách hàng trong quá trình vay vốn để đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của khách hàng được x t trên các mặt sau:

Năng lực thị trường của khách hàng: Đó là vị thế của khách hàng trên thị trường, hệ thống mạng lưới phân phối, chất lượng sản phẩm.

Năng lực quản lý của khách hàng: ngoài việc quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ đoàn kết, yêu công việc, yêu công ty đó là một sự thành công lớn của chủ doanh nghiệp. Để có được điều này doanh nhiệp cần một chính sách thu nhập hợp lý và môi trường làm việc thoải mái cho người lao động.

Khả năng về tài chính của khách hàng: tài chính của khách hàng lành mạnh sẽ thúc đẩy cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước hay trả gốc và lãi vay cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn một phần phản ánh được năng lực tài chính của khách hàng.

– Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng cho vay


Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng đối mặt với cạnh tranh. Hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật cạnh tranh.

Cạnh tranh sẽ buộc các ngân hàng phải đối mặt với việc mở rộng tín dụng khó khăn hơn, thị phần sẽ bị ảnh hưởng, chi phí cho hoạt động tín dụng như: tiếp thị, quảng cáo, nhân sự sẽ tăng cao dẫn đến hiệu quả hoạt động tín dụng giảm sút. Nếu ngân hàng không có các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh thì sẽ rất khó tiếp cận các khách hàng tốt và khó có thể nâng cao CLTD.


1.2.5.2. Nhân tố hủ qu n

-Nhóm nhân tố cơ chế chính sách– quy trình, quy chế tín dụng của NHTM

– Chính sách tín dụng của NHTM


Chính sách tín dụng là nền tảng của hoạt động tín dụng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng tín dụng, mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và ngược lại chính sách tín dụng đưa ra không đúng, không phù hợp thực tiễn sẽ kìm hãm sự phát triển ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Bất cứ một NHTM nào muốn mở rộng và nâng cao được CLTD đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, phù hợp với điều kiện của ngân hàng mình.

Ngoài những quy định chung mang tính nguyên tắc, mỗi ngân hàng cần có những quy định riêng đối với khách hàng. Tùy theo lợi thế của mình và từng loại hình khách hàng mà có những quy định cụ thể phù hợp và thường các quy định cụ thể này của các ngân hàng là không giống nhau nhưng vẫn phải đảm bảo đúng quy chế, bảo đảm các điều kiện về an toàn tín dụng. Có như vậy, ngân hàng vừa mở rộng tín dụng, vừa đảm bảo CLTD để đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối, chính sách của Nhà nước.

– uy trình, quy chế hoạt động tín dụng của NHTM


Quy trình, quy chế tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng, là những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng, nó được bắt đầu từ khi thẩm định, thiết lập hồ sơ, x t duyệt cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thu lãi, thu hồi được hết nợ. CLTD có đảm bảo hay không tùy thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước trong quy trình tín dụng và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng.

Trong quy trình tín dụng, bước thẩm định cho vay, thiết lập hồ sơ và x t duyệt cho vay rất quan trọng. Đây là cơ sở để định lượng rủi ro trong quy trình cho



vay. Trong bước này, CLTD tùy thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay ở từng NHTM.

Kiểm tra quá trình cho vay giúp cho ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu cho hoạt động cho vay, góp phần cải thiện CLTD.

Như vậy nhờ vào việc thực hiện tốt quy trình tín dụng, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định và nhờ đó CLTD luôn được đảm bảo.

-Nhóm nhân tố về công tác tổ chức, chất lượng nhân sự và năng lực quản trị điều hành

– Về công tác tổ chức


Bộ máy tổ chức của ngân hàng nếu được sắp xếp khoa học và có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong mỗi ngân hàng, trong hệ thống ngân hàng; cộng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng,…sẽ tạo điều kiện giúp cho hoạt động cho vay thực hiện tốt hơn. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng một cách lành mạnh và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng. Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học, hợp lý có sự phối hợp nhịp nhàng và gắn kết giữa các bộ phận với nhau sẽ tạo ra sức mạnh tổng lực điều đó sẽ mang lại hiệu quả cao trong công việc.

– Chất lượng nhân sự


Nhân sự là yếu tố quyết định tới sự thành bại trong quản lý tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề và giỏi chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra thực hiện chu kỳ kh p kín của một khoản tín dụng. Trong môi trường cạnh tranh,



chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân sự đóng vai trò quyết định đối với việc thu hút khách hàng và nâng cao uy tín cho ngân hàng.

– Năng lực quản trị điều hành


Năng lực quản trị điều hành của Hội đồng quản trị, ban điều hành của ngân hàng quyết định đến sự sống còn, thành bại của cả hệ thống ngân hàng. Năng lực quản trị được thể hiện và bộc lộ thông qua khả năng hoạch định và tổ chức thực hiện nghiệp vụ của ngân hàng. Năng lực quản trị quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng, khả năng đưa ra được các chiến lược chính sách nhằm thích nghi với từng thời kỳ, thời điểm kinh doanh khác nhau của một ngân hàng.

-Nhóm nhân tố về hệ thống công cụ bảo đảm CLTD

– Trang thiết bị công nghệ ngân hàng phục vụ hoạt động cho vay


Để có thể quản lý và theo dõi có hiệu quả hoạt động tín dụng, song song với việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức ngân hàng, công tác thông tin, kiểm soát nội bộ cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác tín dụng. Việc trang bị các thiết bị như: phần mềm quản lý khách hàng, phần mềm đánh giá chấm điểm xếp loại khách hàng…một cách đầy đủ, hiện đại, phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ (nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ, thanh toán…) giúp cho các cấp quản lý của ngân hàng kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động tín dụng để điều chỉnh kịp với tình hình thực tế nhằm thỏa mãn ngày càng cao yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân hàng có trang thiết bị hiện đại sẽ giảm được nhân lực, thời gian và chi phí, từ đó tạo ra uy tín cho ngân hàng trong cạnh tranh, thu hút khách hàng tốt, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng hoạt động kinh doanh. Do vậy, trang thiết bị cũng là một trong các nhân tố không thể thiếu được để nâng cao CLTD.

Thông tin tín dụng


Muốn thực hiện tốt quy trình tín dụng thì không thể thiếu thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những hồ sơ lưu trong ngân hàng, từ phía những cán bộ tín dụng, từ phía khách hàng, từ các tổ chức tín dụng khác, từ



trung tâm thông tin tín dụng CIC (Credit information center – CIC). Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường và khách hàng để đưa ra những quyết định phù hợp. Theo xu hướng hiện nay các ngân hàng đều muốn xây dựng cho mình một ngân hàng điện tử để có thể đáp ứng nhanh, kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng tốt, CLTD càng cao.

– iểm tra và iểm soát nội bộ


Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng nhằm phát hiện những sai sót của CBTD trong quá trình thực hiện cho vay nhằm duy trì có hiệu quả hoạt động kinh doanh đang xúc tiến, phù hợp với các chính sách, đáp ứng được mục tiêu đã định. Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm soát bao gồm:

Kiểm soát chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay (thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền cho vay, hồ sơ, thủ tục cho vay...)

Kiểm soát định kỳ do kiểm soát viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát cả các nghiệp vụ có liên quan đến kế toán tiền vay.

Tùy thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời các nguyên nhân gây ra sai sót trong quá trình thực hiện cấp tín dụng của công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khắc phục kịp thời qua đo nâng cao được CLTD.

Để kiểm soát nội bộ hiệu quả, ngân hàng cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ, trung thực và có chính sách thưởng, phạt vật chất nghiêm minh.

– uy động vốn của ngân hàng


Huy động vốn và hoạt động cho vay của ngân hàng là hai mặt của một vấn đề, cùng song song tồn tại và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quy mô, cấu trúc và mức độ biến động của nguồn vốn huy động quyết định đến quy mô cấu trúc tài



sản dự trữ, mức cấp tín dụng ngắn hạn, trung hạn – dài hạn và các loại đầu tư khác. Nếu nguồn vốn rẻ và ổn định sẽ là điều kiện để ngân hàng mở rộng thị phần tín dụng, tăng sức cạnh tranh và nâng cao CLTD. Hiện nay nguồn vốn mà ngân hàng huy động được chủ yếu là ngắn hạn, nhưng nhu cầu về nguồn vốn trung, dài hạn của nền kinh tế đang có xu hướng tăng lên bởi nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu trung tâm kinh tế ngày một tăng khi Việt Nam đã tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là cơ sở để thu hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi ngân hàng phải có được chính sách thu hút vốn tốt và hiệu quả để làm tiền đề cho hoạt động cho vay. Có như vậy ngân hàng mới có nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đi vay của khách hàng.

Tóm lại, qua nghiên cứu nội dung các nhân tố ảnh hưởng tới CLTD cho thấy: Tùy theo sự phát triển, điều kiện kinh tế – Xã hội cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất và trình độ cán bộ của từng ngân hàng mà các nhân tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới CLTD. Việc nắm vững các nhân tố chủ quan cũng như khách quan ảnh hưởng tới CLTD và biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt sự ảnh hưởng của các nhân tố này trong điều kiện và hoàn cảnh thực tế sẽ có tác dụng tạo ra sự thành công của hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động của NHTM nói chung.

1.3. KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NHTM VIỆT NAM

1.3.1. Kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại nước ngoài [22]

1.3.1.1. Kinh nghiệm của Ngân hàng thương mại Thái Lan

Hệ thống các NHTM ở Thái Lan có bề dày hoạt động cả hàng trăm năm nay, nhưng hệ thống các ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo bởi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 – 1998. Trước tình hình đó hệ thống các NHTM ở Thái Lan đã thực hiện hàng loạt các thay đổi trong hoạt động tín dụng của mình.

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 22/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí