Nhóm Giải Pháp Từ Ngân Hàng Nhà Nước

của Bộ Tài chính là hoạt động tích cực, ngoài ra, có 28 công ty mua bán nợ (AMC) của các ngân hàng thương mại cổ phần nhưng nguồn lực rất hạn chế và hầu hết chỉ xử lý nợ nội bộ cho chính các ngân hàng mẹ, không tham gia thị trường mua bán nợ. Cùng với những hạn chế về năng lực, phương thức mua bán nợ của các công ty này trên thị trường còn thiếu tính đa dạng. Các công ty mua bán nợ thường áp dụng một phương pháp duy nhất là mua bán nợ theo thỏa thuận nên thiếu tính linh hoạt.

Thực tế, một thị trường mua­bán nợ đúng nghĩa là điều cần thiết thúc đẩy công tác mua bán xử lý nợ xấu. Điều 5 tại Nghị quyết 42 quy định NHTMCP được bán các khoản nợ xấu và TSBĐ liên quan một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư

nợ gốc của khoản nợ. Tuy nhiên, việc bán nợ

vẫn tương đối hạn chế

do các

NHTMCP vẫn chủ yếu chỉ bán nợ cho VAMC và Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), trong khi đó một thị trường mua­bán nợ đúng nghĩa (gồm cả mua­bán nợ bình thường) và hoạt động hiệu quả chưa được hình thành.

Tại Quyết định 1058, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động mua, bán nợ của các doanh nghiệp, về hình thành, phát triển và quản lý thị trường mua, bán nợ. Với vai trò phối hợp, NHNN

phối hợp với Bộ

Tài chính để

triển khai nhiệm vụ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.

nêu trên. Bên cạnh đó, hiện

NHNN cần tiếp tục (i) rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho VAMC tham gia xử lý nợ xấu hiệu quả, triệt để trong các giai đoạn tiếp theo; (ii) tạo điều kiện thuận lợi và chỉ đạo các NHTMCP triển khai công tác mua bán nợ để xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu.

Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 26

Ba là: Chứng khoán hóa nợ xấu.

Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 2 phương pháp:

­ Phương pháp thứ nhất: Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.

­ Phương pháp thứ hai: chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần hay còn gọi là chứng khoán hóa nợ xấu. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ

nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh

nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên, để thực hiện chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm cho loại chứng khoán này phải mang tính thanh khoản cao, để một bên thứ ba có thể xử lý dễ dàng tài sản đó. Trong đó, ngân hàng có nợ xấu tại một doanh nghiệp không xử lý được sẽ phải chứng khoán hóa khoản nợ đó thành cổ phiếu. Theo đó, ngân hàng chuyển đổi từ một người cho vay thành một người sở hữu doanh nghiệp, trở thành nhà đầu tư của doanh nghiệp. Trong thời gian gần đây, việc các doanh nghiệp chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy khoản nợ của chủ nợ được quan tâm

hơn bởi cơ

chế

này đã được cụ

thể

hóa, mới nhất là trong Nghị

định số

60/2015/NĐ­CP sửa đổi, bổ

sung một số

điều của Nghị

định số

58/2012/NĐ­CP

ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ

sung một số

điều của Luật Chứng

khoán. Tuy nhiên, việc tiếp cận, xây dựng và triển khai thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu ở Việt Nam còn gặp phải những khó khăn nhất định. Trong đó, trước hết là vấn đề nguồn nhân lực, đây là nhân tố mang tính chất quyết định đối với hoạt động tài chính nói chung và cho việc ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa nói riêng. Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra đối với việc chứng khoán hóa các khoản vay có thế chấp bất động sản là khả năng xử lý những rủi ro phát sinh trong quá trình chứng khoán khá khó khăn. Bởi trong kỹ thuật chứng khoán hóa khoản vay có thế chấp bất động sản của các NHTMCP, nguồn tài chính cho việc thanh toán gốc và lãi chứng khoán chủ yếu dựa vào tiền thu hồi nợ của khách hàng vay, trên cơ sở đảm bảo bởi các nhà cửa, bất động sản. Ngoài ra, cần xác định loại tài sản nào có thể được chứng khoán hóa, bán cho các nhà đầu tư không phân biệt trong, ngoài nước; loại tài sản nào sẽ không được bán cho nhà đầu tư nước ngoài

Bốn là: Tăng trưởng tín dụng theo hướng an toàn và bền vững

Từ thực trạng tăng trưởng tín dụng, để hệ thống ngân hàng nói chung, các NHTMCP Việt Nam nói riêng góp phần thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu TCTD theo đúng Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 ­ 2020” đã được phê duyệt, phát triển bền vững các ngân hàng Việt Nam, tác giả đưa ra một số khuyến nghị về tăng trưởng tín dụng như sau:

Một là, NHNN nên coi hạn mức tín dụng chỉ là chỉ tiêu định hướng, cần linh hoạt theo diễn biến kinh tế vĩ mô, nhất là trong điều kiện CPI có thể tăng nhưng là do chi phí đẩy (giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ y tế)… tăng chứ không phải do yếu tố tiền tệ). Điều hành tín dụng cần hướng tới tăng trưởng bền vững nền kinh

tế. Đối với các NHTM đạt chuẩn Basel 2 theo quy định tại Thông tư số

41/2016/TT­NHNN, NHNN không nên giao hạn mức tín dụng, tiến tới bãi bỏ chỉ tiêu này đối với các NHTM có nợ xấu dưới 2%.

Hai là, Bộ Tài chính và NHNN thống nhất trình Chính phủ, trình Quốc hội cho phép các NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa, hàng năm được để lại cổ tức được chia để đầu tư, đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế.

Ba là, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp, Bộ Công an… cần có văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề thu giữ tài sản, bán tài sản, đăng ký tài sản,

thực hiện nghĩa vụ

thuế

của các khoản tài sản được bán theo Nghị

quyết số

42/2017/QH14 của Quốc hội. Cấp ủy và chính quyền các địa phương cần chỉ đạo quyết liệt các cơ quan chức năng ở cơ sở trong phối hợp với NHTM xử lý tài sản đã siết nợ.

Bốn là, các NHTM và chi nhánh NHTM cần cử cán bộ có năng lực, có hiểu biết, có kinh nghiệm tham gia xử lý nợ xấu; chủ động và linh hoạt trong bán tài sản đảm bảo tiền vay thu hồi nợ xấu.

NHNN nên để mỗi ngân hàng tự điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình. Các ngân hàng tự bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn, những chỉ số như dư nợ trên huy động, tỷ lệ nợ xấu không quá 3%..., còn lại tăng trưởng, kinh doanh như thế nào là tùy vào điều kiện, năng lực của mỗi ngân hàng. Bỏ trần tín dụng không chỉ trong hệ thống, mà cho từng ngân hàng. Nhìn lại thời điểm cuối quý II/2018, khá nhiều ngân hàng đã phải xin NHNN nới trần tăng trưởng tín dụng và đến cuối năm thì một vài ngân hàng được chấp thuận. Khi quay trở lại cơ chế xin cho, ban phát trong việc nới trần tín dụng cho một vài ngân hàng có nghĩa NHNN đã can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính, cũng như chủ động mở và đóng van tín dụng ở chỗ nào. Trong nền kinh tế thị trường, NHNN cần điều tiết bằng chính sách, công cụ chung

cho toàn hệ thống, trừ một vài ngân hàng trong diện kiểm soát đặc biệt hoặc quá yếu kém, cần sự can thiệp riêng của cơ quan quản lý

3.3.2 Nhóm giải pháp từ Ngân hàng Nhà nước

Thứ nhất: Nâng cao năng lực xử lý nợ xấu cho VAMC.

Nhà nước can thiệp trực tiếp vào xử lý nợ xấu thông qua công ty mua, bán

nợ nhưng

việc

xử lý của

công ty này phải

thực

hiện

theo nguyên tắc

của

thị

trường. Theo đó, tài sản đảm bảo, giá trị còn lại của công ty... phải có cơ chế định giá phù hợp và xác định theo giá thị trường tại thời điểm xử lý; nợ xấu được mua

lại

với

giá rẻ hơn

giá trị sổ sách vì doanh nghiệp

và ngân hàng quản

trị không

hiệu

quả.

Ngoài ra, các công ty mua, bán nợ chỉ tập trung mua những khoản nợ

không quan trọng,

có tác động

thúc đẩy

kinh tế,

tạo

sức

lan toả.

Theo kinh

nghiệm

của

hầu

hết

các công ty quản

lý tài sản

ở các nước

Châu Á như

Inđônesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan, loại hình công ty này cần được trao cho một số quyền đặc biệt để hoạt động một cách dễ dàng như: được cắt giảm

một số thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản đảm bảo, không cần xin ý kiến

của

bên

đi vay trước khi ký kiểm nghiệm

mua, bán khoản

vay... Hoạt

động

của

công ty

mua, bán nợ quốc

gia chỉ thực

sự hiệu

quả,

nghĩa là nợ được xử lý triệt để,

tránh hiện tượng chỉ “đảo nợ” giữa ngân hàng và công ty mua, bán nợ, khi có các cơ chế pháp lý để tài sản đảm bảo dễ dàng thanh khoản.

Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp

lực

xã hội

rất

lớn

về vấn

đề giải

trình thì vấn

đề đặt

ra là thành lập

công ty

mua, bán nợ trực

thuộc

NHNN hay Công ty mua, bán nợ quốc

gia phải đủ

quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua, bán nợ Việt Nam.

Quy mô vốn điều lệ của VAMC thấp (500 tỷ đồng lúc thành lập và được điều chỉnh tăng lên 2000 tỷ đồng từ tháng 3/2015) trong khi yêu cầu đặt ra là phải mua và xử lý khẩn cấp hàng trăm ngàn tỷ đồng. VAMC mua nợ xấu chủ yếu bằng trái phiếu đặc biệt do mình phát hành, không hấp dẫn được các NHTMCP Việt Nam bán nợ. Việc không có sử dụng tiền mà sử dụng trái phiếu đặc biệt để mua nợ khiến VAMC mới chỉ mua nợ theo giá trị sổ sách và bị động trong xử lý thu hồi nợ. Trong khi đó, theo nhiệm vụ, VAMC phải đồng thời thực hiện nhiều hoạt động

khác như: đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản đảm bảo đã được VAMC thu nợ, đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần… Do đó, với nhu cầu và yêu cầu xử lý nợ xấu như trên, số vốn điều lệ của VAMC còn chưa đủ lớn. Để VAMC hoạt động thực sự hiệu quả, NHNN cần chú trọng vào một số giải pháp sau:

­ VAMC cần

được

giao quyền

lực

đủ mạnh.

Quyền

lực

của

VAMC cần

được

giao cụ thể với

nguồn

ngân sách nhất

định,

gắn

với

một

thời

hạn

cụ thể

để giúp xử lý các khoản

nợ xấu

đang ở mức

cao. Tuy nhiên, cần

làm rõ rằng

VAMC là các công ty quản lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của các NHTMCP Việt Nam

­ Phát triển khung pháp lý cho thị trường mua ­ bán và xử lý tài sản xấu. Để VAMC dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã mua, cần xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một thị trường mua ­ bán và xử lý tài sản xấu. Điều này giúp tránh trường hợp khi cần áp dụng một chính sách xử lý nợ nào đó thì lại gặp phải những cản trở về pháp lý trong thực thi.

­ Xử lý nợ xấu phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN.

Do nợ xấu

của

ngân hàng và nợ xấu

của

doanh nghiệp

là hai mặt

của

đồng

tiền.

Do vậy,

VAMC ra đời

để xử lý nợ xấu

trong hệ thống

ngân hàng, thì

đồng thời cũng có thể giải quyết được vấn đề nợ xấu của các DNNN.

 Thứ hai: Kiến nghị với công ty mua bán nợ VAMC để xử lý nợ xấu

VAMC cần đẩy mạnh việc tìm kiếm, khai thác danh sách các khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt, các khoản nợ đang hạch toán nội, ngoại bảng tại các NHTMCP, triển khai làm việc với các NHTMCP khác và đối tác, lựa chọn các khoản nợ có tính khả thi trong việc xử lý sau khi mua để có cơ sở đề xuất VAMC thực hiện mua khoản nợ theo giá trị thị trường; Xây dựng hệ thống thông tin về các khoản nợ xấu, TSBĐ để giới thiệu tới các nhà đầu tư quan tâm, tạo tiền đề xây dựng môi trường trao đổi thông tin công khai, minh bạch nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ; Thực hiện số hóa toàn bộ số khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt; Kết nối với Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN (CIC) nhằm xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu nợ xấu, bổ sung hàng hóa cho thị trường mua bán nợ xấu;

VAMC cần tổ chức tiếp xúc và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư

trong nước và nước ngoài tiếp cận danh mục, hồ sơ pháp lý các khoản nợ xấu,

TSBĐ để giới thiệu và chào bán các khoản nợ/TSBĐ phù hợp với nhu cầu của từng nhà đầu tư nhằm đẩy mạnh công tác xử lý và thu hồi nợ; Chủ động làm việc với

một số đối tác tiềm năng có nhu cầu nhận chuyển nhượng khoản nợ, chuyển

nhượng bất động sản, dây truyền sản xuất và các TSBĐ của một số khoản nợ xấu; Tiếp tục triển khai bán đấu giá/chào giá cạnh tranh/bán thỏa thuận các khoản nợ và TSBĐ để thu hồi nợ. Tích cực đôn đốc, làm việc với khách hàng để yêu cầu, đôn đốc khách hàng trả nợ; Phối hợp với các NHTMCP thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và của các khoản nợ xấu;

Tiếp tục kiện toàn tổ chức, hoàn thiện bộ máy hoạt động theo Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC đã được NHNN phê duyệt nhằm thực hiện có hiệu quả công tác mua, bán và xử lý nợ xấu; Chú trọng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ nhân viên trong nghiệp vụ mua nợ theo giá trị thị trường, xử lý nợ, triển khai các nghiệp vụ mới như bảo lãnh, hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay ...; Tổ chức đào tạo, mời các chuyên gia có kinh nghiệm trong các lĩnh vực VAMC dự kiến triển khai để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng, các quy định pháp luật cho các cán bộ nhân viên để triển khai các quy trình, nghiệp vụ mới;

VAMC cần phối hợp với các Tổ chức quốc tế tổ chức các buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về công tác xử lý nợ, phát triển các dự án hỗ trợ kỹ thuật, qua đó, ứng dụng phù hợp vào thực tế hoạt động tại Việt Nam; Tiếp tục trình NHNN xem xét bổ sung đủ 5.000 tỷ đồng vốn điều lệ theo lộ trình đã được phê duyệt tại Quyết định 1058/QĐ­TTg của Thủ tướng Chính phủ; Bên cạnh đó, VAMC cần thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và TSBĐ của các khoản nợ đã bán cho VAMC; Tích cực tìm kiếm các đối tác mua nợ đối với các khoản nợ của NHTMCP đã bán cho VAMC và được VAMC ủy quyền bán nợ, đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.

 Thứ

ba:

Nâng cao chất

lượng

hoạt

động

Trung tâm thông tin tín dụng

(CIC)

Một trong những bộ phận được các NHTMCP sử dụng là Trung tâm thông

tin tín dụng

(CIC). Một

trong những

điều

kiện

cần

thiết

để quản

trị rủi

ro tốt

là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Thông tin kinh tế không chỉ là một yếu tố cần thiết mà còn vô cùng quan trọng đối với hoạt động và sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Thông tin không chính xác hay bị “bóp méo” sẽ gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động quản lý, điều tiết và giám sát của NHNN

cũng như hoạt

động

kinh doanh của

các NHTMCP. Chất

lượng

thông tin càng

cao thì rủi

ro trong kinh doanh tín dụng

của

các NHTMCP càng giảm.

Vì vậy,

việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là rất cần thiết. Bên

cạnh

đó, cần

chú trọng

đổi

mới

và hiện

đại

hoá các trang thiết

bị,

thiết

lập

hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được thông

suốt, kịp thời. Ngoài ra, NHNN cần phải có chính sách tuyển chọn và đào tạo cán

bộ làm công tác quản

lý mạng

CIC không chỉ am hiểu

về công nghệ thông tin

như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác mà còn phải có khả năng thu thập, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo thích hợp cho các NHTMCP tham khảo.

NHNN cần

phải

có các biện

pháp khuyến

khích và đi dần

đến

các quy

định

bắt

buộc

các NHTMCP hợp

tác, cung cấp

thông tin đầy đủ cho trung tâm.

Thanh tra NHNN nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân hàng,

đồng

thời

có biện

pháp xử lý kiên quyết,

kịp

thời

đối

với

những

ngân hàng vi

phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng như: báo cáo thiếu, báo cáo thông tin sai

lệch.

NHNN cần

khuyến khích các ngân hàng sử dụng thông tin tín dụng từ CIC

như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay.

 Thứ tư: Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng

Với mức độ ngày càng gia tăng và phát triển trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, việc thanh tra giám sát của các cơ quan thanh tra Chính phủ cũng như cơ quan thanh tra giám sát NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và nâng cao CLTD đối với hệ thống. Thực tế trong thời gian qua mặc dù công tác thanh tra giám sát ngân hàng đã có nhiều đổi mới sau khi hệ thống ngân hàng lâm vào khủng hoảng, nợ xấu tăng cao nhưng hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng cũng có nhiều bất cập chưa lường

trước được các vấn đề trọng yếu để xảy ra sai phạm lớn tại một số ngân hàng

gây thất thoát lớn cho tài sản nhà nước và các cổ đông ngân hàng. Nhiều cuộc

thanh tra đã phát hiện ra sai phạm nhưng chậm trễ trong việc xử lý dẫn đến tình trạng các ngân hàng lợi dụng việc lỏng lẻo của công tác giám sát đặc biệt có được cơ chế cho tự tái cơ cấu khắc phục đã không những làm cải thiện tình hình ngân hàng tốt lên mà còn để xảy ra các sai phạm trầm trọng hơn như việc xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây Dựng, Ngân hàng TMCP Đại Dương. Việc thanh tra giám sát là một hoạt động tất yếu nhằm tạo sự ổn định, bảo vệ hợp pháp các quyền lợi

cho ngườIgửi tiền cũng như

duy trì và củng cố

lòng tin của người dân đối với

ngân hàng. Trong thời gian tới để

nâng cao hiệu quả

hoạt động ngân hàng nói

chung và nâng cao hiệu quả tín dụng nói riêng hoạt động thanh tra cần phải có sự đổi mới về chất và lượng với sự thanh tra giám sát thường xuyên dựa trên các quy định của pháp luật.

Công tác thanh tra, giám sát cần phải tập trung vào các lĩnh vực tiềm ẩn

nhiều rủi ro, vi phạm pháp luật như việc cho vay, quy trình cho vay, công tác quản trị rủi ro của ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần phải thanh tra giám sát các Ngân hàng trong việc triển khai đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng đã được chính phủ ban hành. Tăng cường công tác thanh tra việc trích dự phòng, phân loại nợ làm cho hiệu quả kinh doanh ngân hàng đi vào thực chất, thanh tra công tác

xử lý nợ

xấu; cơ cấu nợ theo quy định… Từ

đó để

phát huy công tác thanh tra

giám sát trong hoạt động ngân hàng trong việc hỗ trợ tích cực trong việc cơ cấu các ngân hàng yếu kém, xử lý nợ xấu, đánh giá nợ xấu một cách thực chất hơn, phát hiện thực chất chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Trong hoạt động thanh tra cần phải đưa ra các phương pháp thanh tra hiệu quả tránh trồng chéo, trang bị được cho cán bộ thanh tra đầy đủ các kiến thức kinh nghiệm cho mỗi nhiệm vụ thanh tra đặc thù. Nâng cao tính độc lập của công tác thanh tra giám sát ngân hàng, công tác thanh tra phải không có sự áp đặt và chi phối của các yếu tố khác để đưa ra các kết luận thanh tra có sự tin cậy cao.

Nâng cao việc giám sát sau thanh tra, giám sát việc bổ sung khắc phục theo các kết luận thanh tra. Hiện nay công tác thanh tra giám sát đang đặt nặng vào việc phát hiện sai phạm, phát hiện sai phạm thì nhiều, trong khi việc xử lý sai phạm

Xem tất cả 254 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí