của Bộ Tài chính là hoạt động tích cực, ngoài ra, có 28 công ty mua bán nợ (AMC) của các ngân hàng thương mại cổ phần nhưng nguồn lực rất hạn chế và hầu hết chỉ xử lý nợ nội bộ cho chính các ngân hàng mẹ, không tham gia thị trường mua bán nợ. Cùng với những hạn chế về năng lực, phương thức mua bán nợ của các công ty này trên thị trường còn thiếu tính đa dạng. Các công ty mua bán nợ thường áp dụng một phương pháp duy nhất là mua bán nợ theo thỏa thuận nên thiếu tính linh hoạt.
Thực tế, một thị trường muabán nợ đúng nghĩa là điều cần thiết thúc đẩy công tác mua bán xử lý nợ xấu. Điều 5 tại Nghị quyết 42 quy định NHTMCP được bán các khoản nợ xấu và TSBĐ liên quan một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư
nợ gốc của khoản nợ. Tuy nhiên, việc bán nợ
vẫn tương đối hạn chế
do các
NHTMCP vẫn chủ yếu chỉ bán nợ cho VAMC và Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), trong khi đó một thị trường muabán nợ đúng nghĩa (gồm cả muabán nợ bình thường) và hoạt động hiệu quả chưa được hình thành.
Tại Quyết định 1058, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động mua, bán nợ của các doanh nghiệp, về hình thành, phát triển và quản lý thị trường mua, bán nợ. Với vai trò phối hợp, NHNN
phối hợp với Bộ
Tài chính để
triển khai nhiệm vụ
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn Thiện Chiến Lược Và Chính Sách Tín Dụng
- Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Soát Nội Bộ Và Quản Lý Khoản Vay
- Xây Dựng Hệ Thống Công Nghệ Ngân Hàng, Thông Tin Tín Dụng
- Kiến Nghị Với Ủy Ban Giám Sát Tài Chính Quốc Gia
- Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (2017), Chỉ Thị Số 02/ctnhnn Của Nhnn Về Việc Thực Hiện Chính Sách Tiền Tệ Và Đảm Bảo Hoạt Động Ngân Hàng An Toàn, Hiệu
- Anh/chị Vui Lòng Cho Biết Hiện Tại Anh/chị Đang Làm Tại Ngân Hàng Nào?
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
nêu trên. Bên cạnh đó, hiện
NHNN cần tiếp tục (i) rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho VAMC tham gia xử lý nợ xấu hiệu quả, triệt để trong các giai đoạn tiếp theo; (ii) tạo điều kiện thuận lợi và chỉ đạo các NHTMCP triển khai công tác mua bán nợ để xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu.
Ba là: Chứng khoán hóa nợ xấu.
Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 2 phương pháp:
Phương pháp thứ nhất: Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.
Phương pháp thứ hai: chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần hay còn gọi là chứng khoán hóa nợ xấu. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ
nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh
nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, để thực hiện chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm cho loại chứng khoán này phải mang tính thanh khoản cao, để một bên thứ ba có thể xử lý dễ dàng tài sản đó. Trong đó, ngân hàng có nợ xấu tại một doanh nghiệp không xử lý được sẽ phải chứng khoán hóa khoản nợ đó thành cổ phiếu. Theo đó, ngân hàng chuyển đổi từ một người cho vay thành một người sở hữu doanh nghiệp, trở thành nhà đầu tư của doanh nghiệp. Trong thời gian gần đây, việc các doanh nghiệp chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy khoản nợ của chủ nợ được quan tâm
hơn bởi cơ
chế
này đã được cụ
thể
hóa, mới nhất là trong Nghị
định số
60/2015/NĐCP sửa đổi, bổ
sung một số
điều của Nghị
định số
58/2012/NĐCP
ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ
sung một số
điều của Luật Chứng
khoán. Tuy nhiên, việc tiếp cận, xây dựng và triển khai thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu ở Việt Nam còn gặp phải những khó khăn nhất định. Trong đó, trước hết là vấn đề nguồn nhân lực, đây là nhân tố mang tính chất quyết định đối với hoạt động tài chính nói chung và cho việc ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa nói riêng. Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra đối với việc chứng khoán hóa các khoản vay có thế chấp bất động sản là khả năng xử lý những rủi ro phát sinh trong quá trình chứng khoán khá khó khăn. Bởi trong kỹ thuật chứng khoán hóa khoản vay có thế chấp bất động sản của các NHTMCP, nguồn tài chính cho việc thanh toán gốc và lãi chứng khoán chủ yếu dựa vào tiền thu hồi nợ của khách hàng vay, trên cơ sở đảm bảo bởi các nhà cửa, bất động sản. Ngoài ra, cần xác định loại tài sản nào có thể được chứng khoán hóa, bán cho các nhà đầu tư không phân biệt trong, ngoài nước; loại tài sản nào sẽ không được bán cho nhà đầu tư nước ngoài
Bốn là: Tăng trưởng tín dụng theo hướng an toàn và bền vững
Từ thực trạng tăng trưởng tín dụng, để hệ thống ngân hàng nói chung, các NHTMCP Việt Nam nói riêng góp phần thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu TCTD theo đúng Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 2020” đã được phê duyệt, phát triển bền vững các ngân hàng Việt Nam, tác giả đưa ra một số khuyến nghị về tăng trưởng tín dụng như sau:
Một là, NHNN nên coi hạn mức tín dụng chỉ là chỉ tiêu định hướng, cần linh hoạt theo diễn biến kinh tế vĩ mô, nhất là trong điều kiện CPI có thể tăng nhưng là do chi phí đẩy (giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ y tế)… tăng chứ không phải do yếu tố tiền tệ). Điều hành tín dụng cần hướng tới tăng trưởng bền vững nền kinh
tế. Đối với các NHTM đạt chuẩn Basel 2 theo quy định tại Thông tư số
41/2016/TTNHNN, NHNN không nên giao hạn mức tín dụng, tiến tới bãi bỏ chỉ tiêu này đối với các NHTM có nợ xấu dưới 2%.
Hai là, Bộ Tài chính và NHNN thống nhất trình Chính phủ, trình Quốc hội cho phép các NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa, hàng năm được để lại cổ tức được chia để đầu tư, đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Ba là, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp, Bộ Công an… cần có văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề thu giữ tài sản, bán tài sản, đăng ký tài sản,
thực hiện nghĩa vụ
thuế
của các khoản tài sản được bán theo Nghị
quyết số
42/2017/QH14 của Quốc hội. Cấp ủy và chính quyền các địa phương cần chỉ đạo quyết liệt các cơ quan chức năng ở cơ sở trong phối hợp với NHTM xử lý tài sản đã siết nợ.
Bốn là, các NHTM và chi nhánh NHTM cần cử cán bộ có năng lực, có hiểu biết, có kinh nghiệm tham gia xử lý nợ xấu; chủ động và linh hoạt trong bán tài sản đảm bảo tiền vay thu hồi nợ xấu.
NHNN nên để mỗi ngân hàng tự điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình. Các ngân hàng tự bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn, những chỉ số như dư nợ trên huy động, tỷ lệ nợ xấu không quá 3%..., còn lại tăng trưởng, kinh doanh như thế nào là tùy vào điều kiện, năng lực của mỗi ngân hàng. Bỏ trần tín dụng không chỉ trong hệ thống, mà cho từng ngân hàng. Nhìn lại thời điểm cuối quý II/2018, khá nhiều ngân hàng đã phải xin NHNN nới trần tăng trưởng tín dụng và đến cuối năm thì một vài ngân hàng được chấp thuận. Khi quay trở lại cơ chế xin cho, ban phát trong việc nới trần tín dụng cho một vài ngân hàng có nghĩa NHNN đã can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính, cũng như chủ động mở và đóng van tín dụng ở chỗ nào. Trong nền kinh tế thị trường, NHNN cần điều tiết bằng chính sách, công cụ chung
cho toàn hệ thống, trừ một vài ngân hàng trong diện kiểm soát đặc biệt hoặc quá yếu kém, cần sự can thiệp riêng của cơ quan quản lý
3.3.2 Nhóm giải pháp từ Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất: Nâng cao năng lực xử lý nợ xấu cho VAMC.
Nhà nước can thiệp trực tiếp vào xử lý nợ xấu thông qua công ty mua, bán
nợ nhưng
việc
xử lý của
công ty này phải
thực
hiện
theo nguyên tắc
của
thị
trường. Theo đó, tài sản đảm bảo, giá trị còn lại của công ty... phải có cơ chế định giá phù hợp và xác định theo giá thị trường tại thời điểm xử lý; nợ xấu được mua
lại
với
giá rẻ hơn
giá trị sổ sách vì doanh nghiệp
và ngân hàng quản
trị không
hiệu
quả.
Ngoài ra, các công ty mua, bán nợ chỉ tập trung mua những khoản nợ
không quan trọng,
có tác động
thúc đẩy
kinh tế,
tạo
sức
lan toả.
Theo kinh
nghiệm
của
hầu
hết
các công ty quản
lý tài sản
ở các nước
Châu Á như
Inđônesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan, loại hình công ty này cần được trao cho một số quyền đặc biệt để hoạt động một cách dễ dàng như: được cắt giảm
một số thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản đảm bảo, không cần xin ý kiến
của
bên
đi vay trước khi ký kiểm nghiệm
mua, bán khoản
vay... Hoạt
động
của
công ty
mua, bán nợ quốc
gia chỉ thực
sự hiệu
quả,
nghĩa là nợ được xử lý triệt để,
tránh hiện tượng chỉ “đảo nợ” giữa ngân hàng và công ty mua, bán nợ, khi có các cơ chế pháp lý để tài sản đảm bảo dễ dàng thanh khoản.
Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp
lực
xã hội
rất
lớn
về vấn
đề giải
trình thì vấn
đề đặt
ra là thành lập
công ty
mua, bán nợ trực
thuộc
NHNN hay Công ty mua, bán nợ quốc
gia phải đủ
quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua, bán nợ Việt Nam.
Quy mô vốn điều lệ của VAMC thấp (500 tỷ đồng lúc thành lập và được điều chỉnh tăng lên 2000 tỷ đồng từ tháng 3/2015) trong khi yêu cầu đặt ra là phải mua và xử lý khẩn cấp hàng trăm ngàn tỷ đồng. VAMC mua nợ xấu chủ yếu bằng trái phiếu đặc biệt do mình phát hành, không hấp dẫn được các NHTMCP Việt Nam bán nợ. Việc không có sử dụng tiền mà sử dụng trái phiếu đặc biệt để mua nợ khiến VAMC mới chỉ mua nợ theo giá trị sổ sách và bị động trong xử lý thu hồi nợ. Trong khi đó, theo nhiệm vụ, VAMC phải đồng thời thực hiện nhiều hoạt động
khác như: đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản đảm bảo đã được VAMC thu nợ, đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần… Do đó, với nhu cầu và yêu cầu xử lý nợ xấu như trên, số vốn điều lệ của VAMC còn chưa đủ lớn. Để VAMC hoạt động thực sự hiệu quả, NHNN cần chú trọng vào một số giải pháp sau:
VAMC cần
được
giao quyền
lực
đủ mạnh.
Quyền
lực
của
VAMC cần
được
giao cụ thể với
nguồn
ngân sách nhất
định,
gắn
với
một
thời
hạn
cụ thể
để giúp xử lý các khoản
nợ xấu
đang ở mức
cao. Tuy nhiên, cần
làm rõ rằng
VAMC là các công ty quản lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của các NHTMCP Việt Nam
Phát triển khung pháp lý cho thị trường mua bán và xử lý tài sản xấu. Để VAMC dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã mua, cần xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một thị trường mua bán và xử lý tài sản xấu. Điều này giúp tránh trường hợp khi cần áp dụng một chính sách xử lý nợ nào đó thì lại gặp phải những cản trở về pháp lý trong thực thi.
Xử lý nợ xấu phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN.
Do nợ xấu
của
ngân hàng và nợ xấu
của
doanh nghiệp
là hai mặt
của
đồng
tiền.
Do vậy,
VAMC ra đời
để xử lý nợ xấu
trong hệ thống
ngân hàng, thì
đồng thời cũng có thể giải quyết được vấn đề nợ xấu của các DNNN.
Thứ hai: Kiến nghị với công ty mua bán nợ VAMC để xử lý nợ xấu
VAMC cần đẩy mạnh việc tìm kiếm, khai thác danh sách các khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt, các khoản nợ đang hạch toán nội, ngoại bảng tại các NHTMCP, triển khai làm việc với các NHTMCP khác và đối tác, lựa chọn các khoản nợ có tính khả thi trong việc xử lý sau khi mua để có cơ sở đề xuất VAMC thực hiện mua khoản nợ theo giá trị thị trường; Xây dựng hệ thống thông tin về các khoản nợ xấu, TSBĐ để giới thiệu tới các nhà đầu tư quan tâm, tạo tiền đề xây dựng môi trường trao đổi thông tin công khai, minh bạch nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ; Thực hiện số hóa toàn bộ số khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt; Kết nối với Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN (CIC) nhằm xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu nợ xấu, bổ sung hàng hóa cho thị trường mua bán nợ xấu;
VAMC cần tổ chức tiếp xúc và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài tiếp cận danh mục, hồ sơ pháp lý các khoản nợ xấu,
TSBĐ để giới thiệu và chào bán các khoản nợ/TSBĐ phù hợp với nhu cầu của từng nhà đầu tư nhằm đẩy mạnh công tác xử lý và thu hồi nợ; Chủ động làm việc với
một số đối tác tiềm năng có nhu cầu nhận chuyển nhượng khoản nợ, chuyển
nhượng bất động sản, dây truyền sản xuất và các TSBĐ của một số khoản nợ xấu; Tiếp tục triển khai bán đấu giá/chào giá cạnh tranh/bán thỏa thuận các khoản nợ và TSBĐ để thu hồi nợ. Tích cực đôn đốc, làm việc với khách hàng để yêu cầu, đôn đốc khách hàng trả nợ; Phối hợp với các NHTMCP thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và của các khoản nợ xấu;
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, hoàn thiện bộ máy hoạt động theo Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC đã được NHNN phê duyệt nhằm thực hiện có hiệu quả công tác mua, bán và xử lý nợ xấu; Chú trọng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ nhân viên trong nghiệp vụ mua nợ theo giá trị thị trường, xử lý nợ, triển khai các nghiệp vụ mới như bảo lãnh, hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay ...; Tổ chức đào tạo, mời các chuyên gia có kinh nghiệm trong các lĩnh vực VAMC dự kiến triển khai để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng, các quy định pháp luật cho các cán bộ nhân viên để triển khai các quy trình, nghiệp vụ mới;
VAMC cần phối hợp với các Tổ chức quốc tế tổ chức các buổi hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về công tác xử lý nợ, phát triển các dự án hỗ trợ kỹ thuật, qua đó, ứng dụng phù hợp vào thực tế hoạt động tại Việt Nam; Tiếp tục trình NHNN xem xét bổ sung đủ 5.000 tỷ đồng vốn điều lệ theo lộ trình đã được phê duyệt tại Quyết định 1058/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ; Bên cạnh đó, VAMC cần thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và TSBĐ của các khoản nợ đã bán cho VAMC; Tích cực tìm kiếm các đối tác mua nợ đối với các khoản nợ của NHTMCP đã bán cho VAMC và được VAMC ủy quyền bán nợ, đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.
Thứ
ba:
Nâng cao chất
lượng
hoạt
động
Trung tâm thông tin tín dụng
(CIC)
Một trong những bộ phận được các NHTMCP sử dụng là Trung tâm thông
tin tín dụng
(CIC). Một
trong những
điều
kiện
cần
thiết
để quản
trị rủi
ro tốt
là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Thông tin kinh tế không chỉ là một yếu tố cần thiết mà còn vô cùng quan trọng đối với hoạt động và sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Thông tin không chính xác hay bị “bóp méo” sẽ gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động quản lý, điều tiết và giám sát của NHNN
cũng như hoạt
động
kinh doanh của
các NHTMCP. Chất
lượng
thông tin càng
cao thì rủi
ro trong kinh doanh tín dụng
của
các NHTMCP càng giảm.
Vì vậy,
việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là rất cần thiết. Bên
cạnh
đó, cần
chú trọng
đổi
mới
và hiện
đại
hoá các trang thiết
bị,
thiết
lập
hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được thông
suốt, kịp thời. Ngoài ra, NHNN cần phải có chính sách tuyển chọn và đào tạo cán
bộ làm công tác quản
lý mạng
CIC không chỉ am hiểu
về công nghệ thông tin
như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác mà còn phải có khả năng thu thập, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo thích hợp cho các NHTMCP tham khảo.
NHNN cần
phải
có các biện
pháp khuyến
khích và đi dần
đến
các quy
định
bắt
buộc
các NHTMCP hợp
tác, cung cấp
thông tin đầy đủ cho trung tâm.
Thanh tra NHNN nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân hàng,
đồng
thời
có biện
pháp xử lý kiên quyết,
kịp
thời
đối
với
những
ngân hàng vi
phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng như: báo cáo thiếu, báo cáo thông tin sai
lệch.
NHNN cần
khuyến khích các ngân hàng sử dụng thông tin tín dụng từ CIC
như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay.
Thứ tư: Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng
Với mức độ ngày càng gia tăng và phát triển trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, việc thanh tra giám sát của các cơ quan thanh tra Chính phủ cũng như cơ quan thanh tra giám sát NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và nâng cao CLTD đối với hệ thống. Thực tế trong thời gian qua mặc dù công tác thanh tra giám sát ngân hàng đã có nhiều đổi mới sau khi hệ thống ngân hàng lâm vào khủng hoảng, nợ xấu tăng cao nhưng hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng cũng có nhiều bất cập chưa lường
trước được các vấn đề trọng yếu để xảy ra sai phạm lớn tại một số ngân hàng
gây thất thoát lớn cho tài sản nhà nước và các cổ đông ngân hàng. Nhiều cuộc
thanh tra đã phát hiện ra sai phạm nhưng chậm trễ trong việc xử lý dẫn đến tình trạng các ngân hàng lợi dụng việc lỏng lẻo của công tác giám sát đặc biệt có được cơ chế cho tự tái cơ cấu khắc phục đã không những làm cải thiện tình hình ngân hàng tốt lên mà còn để xảy ra các sai phạm trầm trọng hơn như việc xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây Dựng, Ngân hàng TMCP Đại Dương. Việc thanh tra giám sát là một hoạt động tất yếu nhằm tạo sự ổn định, bảo vệ hợp pháp các quyền lợi
cho ngườIgửi tiền cũng như
duy trì và củng cố
lòng tin của người dân đối với
ngân hàng. Trong thời gian tới để
nâng cao hiệu quả
hoạt động ngân hàng nói
chung và nâng cao hiệu quả tín dụng nói riêng hoạt động thanh tra cần phải có sự đổi mới về chất và lượng với sự thanh tra giám sát thường xuyên dựa trên các quy định của pháp luật.
Công tác thanh tra, giám sát cần phải tập trung vào các lĩnh vực tiềm ẩn
nhiều rủi ro, vi phạm pháp luật như việc cho vay, quy trình cho vay, công tác quản trị rủi ro của ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần phải thanh tra giám sát các Ngân hàng trong việc triển khai đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng đã được chính phủ ban hành. Tăng cường công tác thanh tra việc trích dự phòng, phân loại nợ làm cho hiệu quả kinh doanh ngân hàng đi vào thực chất, thanh tra công tác
xử lý nợ
xấu; cơ cấu nợ theo quy định… Từ
đó để
phát huy công tác thanh tra
giám sát trong hoạt động ngân hàng trong việc hỗ trợ tích cực trong việc cơ cấu các ngân hàng yếu kém, xử lý nợ xấu, đánh giá nợ xấu một cách thực chất hơn, phát hiện thực chất chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Trong hoạt động thanh tra cần phải đưa ra các phương pháp thanh tra hiệu quả tránh trồng chéo, trang bị được cho cán bộ thanh tra đầy đủ các kiến thức kinh nghiệm cho mỗi nhiệm vụ thanh tra đặc thù. Nâng cao tính độc lập của công tác thanh tra giám sát ngân hàng, công tác thanh tra phải không có sự áp đặt và chi phối của các yếu tố khác để đưa ra các kết luận thanh tra có sự tin cậy cao.
Nâng cao việc giám sát sau thanh tra, giám sát việc bổ sung khắc phục theo các kết luận thanh tra. Hiện nay công tác thanh tra giám sát đang đặt nặng vào việc phát hiện sai phạm, phát hiện sai phạm thì nhiều, trong khi việc xử lý sai phạm