Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam

hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm ổn định các cân đối vĩ mô và kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

­ Hệ thống tiền tệ, ngân hàng và hoạt động các tổ chức tín dụng là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam. Ổn định hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong ổn định tiền tệ và ổn định tài chính, là điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững, và phải được bảo đảm bằng sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, cùng sự phát triển hài hòa, cân đối giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

­ Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò quan trọng

góp phần hoàn thiện thể

chế

kinh tế

thị

trường định hướng xã hội chủ

nghĩa.

Khuôn khổ pháp lý liên quan tới tiền tệ, ngân hàng phải phù hợp với nguyên tắc thị trường, bảo đảm giữ an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống, tăng cường tính minh bạch, công khai, cạnh tranh và phù hợp với những thông lệ quốc tế tốt nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.

Hệ thống các tổ

chức tín dụng, gồm mọi thành phần kinh tế, được đối xử

Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 22

bình

đẳng và cạnh tranh theo pháp luật, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Trong đó, các tổ chức tín dụng trong nước đóng vai trò chủ lực, chủ đạo trong việc huy động và phân bổ vốn tín dụng, cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

­ Nhà nước, thông qua vai trò của Ngân hàng Nhà nước, kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng ổn định, an toàn, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh,

bảo đảm kỷ

luật, kỷ

cương, thượng tôn pháp luật và tôn trọng các quy luật thị

trường. Nhà nước can thiệp chủ

yếu bằng công cụ

thị

trường, hoặc thông qua

nguồn lực tài chính nhà nước; tạo mọi điều kiện thuận lợi để khu vực tư nhân phát triển trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Nhà nước chỉ can thiệp hành chính trực tiếp trên thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng khi phát sinh nguy cơ mất ổn định thị trường tiền tệ, đe dọa an toàn hệ thống, có khả năng đe dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.

­ Kịp thời nắm bắt cơ hội và thách thức từ tác động của cách mạng công

nghiệp để định hướng hoạt động của ngành Ngân hàng. Nhận thức sâu sắc ứng

dụng khoa học, công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo đi đôi với phát triển nguồn

nhân lực có chất lượng cao là những thành tố chính, then chốt cho sự phát triển

nhanh và bền vững, nâng cao sức cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam so với khu vực và thế giới.

b. Mục tiêu

­ Hiện đại hóa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo hướng: có mô hình tổ chức hợp lý và cơ chế vận hành đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có đầy đủ vị thế pháp lý và trách nhiệm giải trình; thực hiện mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng bền vững; bảo đảm an toàn, lành mạnh hệ thống các tổ chức tín dụng, giữ vai trò chủ chốt bảo đảm ổn định tài chính; thực thi vai trò giám sát các hệ thống thanh toán, là trung tâm thanh toán và quyết toán cho các hệ thống thanh toán và hệ thống giao dịch tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế.

Phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng: các tổ chức tín dụng trong nước đóng vai trò chủ lực; hoạt động minh bạch, cạnh tranh, an toàn, hiệu quả bền vững; cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình; dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN vào năm 2025; năng động, sáng tạo để thích ứng với quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa; đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày càng gia tăng của nền kinh tế, tiến tới tài chính toàn diện vào năm 2030, bảo đảm mọi người dân và doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận đầy đủ, thuận tiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng có chất lượng, đóng góp tích cực cho phát triển bền vững.

­ Tăng dần tính độc lập, chủ động và trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Nhà nước về mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững.

Giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, phấn đấu tỷ lệ tiền gửi

ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt mức dưới 7,5% vào năm 2020 và mức 5%

vào năm 2030; tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.

­ Tăng cường năng lực thể chế, hiệu lực, hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước; mở rộng phạm vi thanh tra, giám sát đến các tập đoàn tài chính dưới hình thức công ty mẹ ­ con, trong đó công ty mẹ là tổ chức tín

dụng; đến cuối năm 2025, thanh tra, giám sát ngân hàng tuân thủ phần lớn các

nguyên tắc giám sát ngân hàng hiệu quả theo Basel. Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS. Đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức dưới 10%; đến cuối năm 2025, tỷ trọng tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán ở mức dưới 8%.

­ Tăng số

lượng doanh nghiệp và người dân tiếp cận với các dịch vụ

tài

chính, ngân hàng do các tổ chức tín dụng cung ứng. Tập trung phát triển các loại hình dịch vụ phù hợp phục vụ các nhóm dân cư chưa hoặc ít được tiếp cận với dịch vụ ngân hàng truyền thống ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế ­ xã hội khó khăn. Phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng phù hợp với điều kiện kinh tế ­ xã hội và thực trạng của hệ thống qua từng giai đoạn

3.1.2.2 Định hướng

nâng cao chất lượng

tín dụng

của các ngân hàng thương

mại cổ phần Việt Nam đến năm 2030

Phát triển hệ thống các NHTMCP Việt Nam và nâng cao CLTD phù hợp với điều kiện kinh tế ­ xã hội và thực trạng của hệ thống qua từng giai đoạn, cụ thể như sau:

Giai đoạn 2018 – 2020: tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các NHTMCP Việt Nam gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các ngân hàng yếu kém bằng các hình thức phù hợp theo cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế.

Đến năm 2020: Phấn đấu đến năm 2020 các NHTMCP cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực Basel 2; có ít nhất từ 1 – 2 NHTMCP nằm trong nhóm 100 ngân hàng lớn nhất về tổng tài sản trong khu vực Châu Á. Đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các ngân hàng, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện

pháp phân loại nợ xuống dưới 3% (không bao gồm các NHTMCP yếu kém đã được Chính phủ phê duyệt phương án xử lý).

Giai đoạn 2021 – 2025: Nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh, tăng sự minh bạch và tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt trong quản trị và trong hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. Phấn đấu đến cuối năm 2025 có ít nhất từ 2­3 ngân hàng thương mại cổ phần nằm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất (về tổng tài sản) trong khu vực châu Á. Tất cả các NHTM áp dụng Basel 2 theo phương pháp tiêu chuẩn, triển khai thí điểm Basel 2 theo phương pháp nâng cao tại NHTMNN nắm cổ phẩn chi phối và NHTMCP có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel 2 theo phương pháp tiêu chuẩn;

Giai đoạn 2026 – 2030: Tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 16­17%; Tăng hiệu quả phân bổ nguồn vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội; thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh; tăng tỷ trọng tín dụng ngân hàng đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án vay vốn tín dụng [21]

NHNN cũng đặt ra định hướng nâng cao CLTD của các NHTMCP VN với những phương hướng cụ thể như:

­ Chuyển dịch cơ cấu tài sản Có theo hướng là tăng tỷ trọng tài sản có sinh lời, giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng thanh toán nhanh kịp thời đáp ứng tốt khả năng thanh khoản, sự phù hợp về cấu trúc, tài sản nguồn vốn, đồng tiền, đa dạng

trong cấu trúc tài sản có và khả năng chuyển đổi rủi ro. Xử lý nợ

xấu, nợ

tồn

đọng gắn liền với việc lành mạnh hoá tài chính nói chung và tăng vốn tự có nói riêng để nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực tài chính của ngân hàng.

­ Tăng cường công tác quản lý rủi ro để ngăn chặn sự gia tăng nợ xấu và duy trì nợ xấu ở mức thấp nhất trên cơ sở xây dựng quy trình tín dụng công tác quản trị rủi ro cũng như thông tin quản lý hoàn chỉnh và hệ thống kế toán phù hợp với thông lệ của quốc tế.

­ Tăng trưởng tín dụng thận trọng, căn cứ trên kết quả xếp hạng tín dụng

nội bộ

để xây dựng cơ

cấu cho vay hợp lý,

ưu tiên đầu tư

vốn cho các doanh

nghiệp hoạt động hiệu quả, rủi ro thấp đồng thời cắt giảm dần dư nợ đối với các doanh nghiệp có dư nợ xấu. Mở rộng quy mô tín dụng gắn với nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng bằng nhiều biện pháp và đảm bảo phương châm “An toàn, hiệu quả” và tăng trưởng ổn định. Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển tín dụng cá nhân, cho vay tiêu dùng để phân tán rủi ro, hạn chế các lĩnh vực cho vay có độ rủi ro cao như cho vay lĩnh vực kinh doanh bất động sản, chứng khoán.

­ Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đưa ra các biện pháp thu hồi và giảm tỷ lệ nợ xấu. Việc thu hồi nợ xấu triệt để cần có sự phối hợp giữa ngân hàng với các cơ quan khác nhau như; Tòa án, thi hành án, công an. Các đơn vị cần có sự phối hợp và thống nhất cao trong việc xử lý nợ tránh việc xử lý nợ chậm do công tác hành chính không có sự phối hợp giữa các cơ quan với nhau hay giữa ngân hàng với chính quyền địa phương. Đa dạng hoá các loại hình cấp tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt động nhằm hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, tăng cường kiểm tra giám sát, tăng cường công tác thẩm định để tạo ra uy tín và sự an tâm cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng.

­ Tăng cường phối hợp trong công tác thanh tra giám sát và quản lý hoạt động ngân hàng, đảm bảo hệ thống các TCTD trên địa bàn hoạt động an toàn, lành mạnh. Tiếp tục triển khai cơ cấu lại TCTD và đẩy mạnh xử lý nợ xấu, duy trì tỷ lệ nợ xấu trên địa bàn bền vững dưới 3%/tổng dư nợ, đảm bảo hoạt động của các TCTD ổn định. NHNN và Cục thi hành án dân sự tiếp tục tiến hành rà soát kết quả phân loại án và kết quả thi hành án dân sự, tổng hợp những khó khăn vướng mắc, đề ra giải pháp và đề xuất lãnh đạo các cấp để có giải pháp chỉ đạo giải quyết, tạo điều kiện cho công tác xử lý nợ xấu đạt hiệu quả

3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Qua phân tích thực trạng về chất lượng tín dụng của các ngân hàng TMCP, mặc dù kết quả có nhiều ưu điểm nhưng bên cạnh đó còn không ít những vấn đề tồn tại. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía: từ các ngân hàng TMCP, từ bản thân các khách hàng và từ phía các cơ quan quản lý cũng như chính sách của Nhà nước. Tác giả xin đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam như sau:

3.2.1 Tăng cường mở rộng nguồn vốn, nâng cao hệ số an toàn vốn đáp ứng tiêu chuẩn Basel 2

Giải pháp này xuất phát từ lý luận cũng như thực tiễn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Về lý thuyết, vốn chủ sở hữu được coi là tấm nệm chống đỡ rủi ro của NHTM.Việc tăng vốn chủ sở hữu sẽ giúp các NHTM mở rộng quy mô hoạt động và gia tăng khả năng kiếm tìm lợi nhuận. Tình trạng nợ xấu và yêu cầu quản trị theo theo Basel 2 cùng những áp lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình tự do hóa tài chính trong hoạt động ngân hàng cho thấy việc tăng qui mô vốn chủ sở hữu và đảm bảo hệ số an toàn vốn luôn là yếu tố cần thiết để mỗi NHTMCP củng cố vị thế cạnh tranh trên thị trường.

Tập trung nâng

cao năng lực

tài chính, trong đó tập

trung thực hiện tăng

vốn điều lệ từ phát hành cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư tài chính và thực hiện các biện pháp tăng vốn khác như Phát hành trái phiếu cấp 2, tăng vốn từ nguồn thặng dư phát hành thêm cổ phần và tăng vốn từ nguồn nội lực của các NHTMCP Việt Nam, phấn đấu gia tăng mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel 2 và đáp ứng yêu cầu theo lộ trình quy định tại Thông tư 41/2016/TT­NHNN. Phương án tăng vốn của các ngân hàng hiện nay chủ yếu vẫn thông qua 3 kênh: Giữ lại lợi nhuận; phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu; phát hành cổ phiếu cho cổ đông tiềm năng. Ngoài ra, sáp nhập cũng được coi là một trong những phương án để ngân hàng tăng vốn. Tuy nhiên, đây sẽ là phương án cuối cùng, bất đắc dĩ mới phải sáp nhập.

Thứ nhất: Các NHTMCP giữ lại lợi nhuận hoặc phát hành cổ phiếu bằng cổ tức cho cổ đông hiện hữu. Trong đó việc tăng vốn từ các cổ đông hiện hữu có tính khả thi cao hơn với lý do phần lớn các NHTMCP lớn có vị thế và triển vọng phát triển, vì vậy những cổ đông hiện hữu thường có xu hướng muốn nắm giữ cổ phiếu ngân hàng để giữ tỷ lệ sở hữu cổ phiếu hay không bị loãng quyền sở hữu cổ phiếu của mình cũng như chiến lược đầu tư dài hạn. Do vậy, việc thu hút vốn của các cổ đông hiện hữu sẽ dễ được các cổ đông đón nhận. Cho dù, tại thời điểm hiện tại việc tăng vốn này sẽ bị hạn chế bởi tiềm lực tài chính của các cổ đông hiện hữu

trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều yếu tố bất lợi, nhất là với những cổ đông pháp nhân trong xu hướng thoái vốn ở những lĩnh vực kinh doanh ngoài ngành.

Đây chỉ là giải pháp tình thế, về lâu dài sẽ làm tăng phần vốn nhà nước tại các ngân hàng TMCP Nhà nước, từ đó làm chậm lại chiến lược tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nói chung. Tăng vốn bằng việc giữ lại lợi nhuận không mang lại số vốn lớn so với nhu cầu tăng quy

mô vốn của các ngân hàng, đồng thời có thể

làm chậm tiến trình giảm tỷ

lệ cổ

phần nhà nước tại các NHTM và hạn chế sự quan tâm của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ hai: Các NHTMCP phát hành trái phiếu để tăng vốn trung và dài hạn. Giải pháp này có tiềm ẩn rủi ro về kỳ hạn. Trái phiếu là một công cụ nợ để tạo nguồn vốn bổ sung ở dạng vốn vay cho ngân hàng. Đến thời điểm đáo hạn, ngân hàng buộc phải có đủ nguồn tiền để trả cho trái chủ cả vốn lẫn lãi, khi đó, nguồn vốn bị giảm sút đáng kể và ngân hàng lại phải tìm cách xoay nguồn tiền mới.

Thứ ba: Các NHTMCP Nhà nước tăng vốn bằng cách bán bớt cổ phần Nhà nước. Điển hình như BIDV đang dự kiến phát hành riêng lẻ cho đối tác KEB Hana Bank của Hàn Quốc hơn 603,3 triệu cổ phần, tương ứng tỉ lệ 15% vốn điều lệ.

Tổng giá trị

giao dịch hơn 20 nghìn tỷ đồng, tương

ứng với mức giá 33.640

đồng/cổ phần. Sau khi giao dịch thành công, vốn Nhà nước tại BIDV sẽ giảm từ 95,28% xuống còn trên 80% vốn điều lệ. Tuy nhiên việc bán cổ phần cho các nhà

đầu tư

nước ngoài không phải là giải pháp có thể

thực hiện với Vietinbank bởi

ngân hàng này đã vượt giới hạn sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài. Với những ngân hàng có quy mô lớn và nhiều triển vọng phát triển, các NHTMCP sẽ là tâm điểm thu hút vốn của các nhà đầu tư ngoại. Theo tinh thần Nghị định 01/2014/NĐ­CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam, tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài được nâng lên 20% (quy định cũ là 15%); tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không

vượt quá 30% vốn điều lệ

của một NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, trong số

các

NHTMCP thì đã có ngân hàng sử dụng hết “room”của mình

Thứ tư: Các NHTMCP Nhà nước cần tiếp tục giảm giới hạn sở hữu nhà

nước. Nếu cổ

đông Nhà nước vẫn nắm giữ

tối thiểu 65% cổ

phần tại các

NHTMCP nhà nước thì hầu như không cổ đông chiến lược hoặc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư. Bởi vì, với các nhà đầu tư, việc bỏ vốn mà không nắm quyền chi phối chỉ mang tính chất là đầu tư tài chính. Nếu làm như vậy, có nhiều địa chỉ đầu tư khác hấp dẫn hơn các NHTMCP nhà nước. Do đó, Chính phủ nên hạ thấp rào sở hữu của cổ đông Nhà nước xuống mức để các nhà đầu tư chiến lược có thể nắm cổ phần chi phối ít nhất 51% thì mới thu hút được vốn đầu tư. Bên cạnh việc đáp ứng yêu cầu về nguồn vốn, sự tham gia của các nhà đầu tư “ngoại” còn giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản trị trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

Thứ năm: Mở rộng vốn huy động

Vốn

cho vay của

NH xuất

phát từ nhiều

nguồn

khác nhau, trong đó có hai

nguồn chủ yếu đó là vốn tự có và vốn huy động. Trong đó vốn huy động chiếm

tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NH. Tính chất của nguồn vốn này là một

trong những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động cho vay của NH. Vì

vậy,

một trong những giải pháp để mở rộng hoạt

động

tín dụng

là xây dựng và

phát triển nguồn vốn bằng cách đa dạng hoá các hình thức các loại kì hạn, có các biện pháp phù hợp, cụ thể:

huy động, đa dạng hoá

­ Tạo

cho các khoản

tiền

gửi

có tính chuyển

hoá dễ dàng để khi người

dân gửi tiền vào NH cũng như mở tài khoản không phải chờ đợi lâu, qua nhiều

loại giấy tờ, tạo tâm lý không tốt cho khách hàng.

­ Cải tiến

thủ tục

nâng cao chất lượng

các hình thức

huy động vốn

hiện

có như: Tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ

hạn,

không kỳ hạn,…

­ Tăng cường các biện pháp khuyến khích phát triển các tài khoản cá nhân và

thanh toán qua NHTMCP. Các NHTMCP nên chú ý đến nguồn tiền gửi thanh toán này bởi đây là nguồn tiền có chi phí thấp. Việc thu hút thêm nhiều khoản tiền gửi loại này sẽ giúp Ngân hàng hạ lãi suất đầu ra, góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng.

­ Ngoài việc

tiếp

tục

sử dụng

và hoàn thiện

dần

các hình thức

huy động

truyền

thống,

NHTMCP cần

chủ động tiến

hành đa dạng

hóa các hình thức

huy

động vốn theo hướng thỏa mãn tối đa nhu cầu gửi tiền của KH bằng cách mở rộng

nhiều hình

thức

huy động

tiền

gửi

tiết

kiệm

với

nhiều

thời

hạn,

nhiều

loại

Xem tất cả 254 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí