lãi suất,
nhiều
phương
thức
gửi
và thanh toán khác nhau, gửi
một
nơi
lấy ở
nhiều
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 20
- Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến Năm 2030
- Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Soát Nội Bộ Và Quản Lý Khoản Vay
- Xây Dựng Hệ Thống Công Nghệ Ngân Hàng, Thông Tin Tín Dụng
- Nhóm Giải Pháp Từ Ngân Hàng Nhà Nước
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
nơi,
v.v… Bên cạnh việc kết hợp với những hình thức khuyến khích vật
chất mà thời gian qua NHTMCP đã áp dụng.
NH cần
tạo
nên sự gắn
kết
giữa
tiền gửi huy động của dân cư với tín dụng tiêu dùng.
Hoàn thiện và mở rộng các dịch vụ NH góp phần nâng cao nguồn tiền gửi thanh toán. Mở rộng hoạt động thu hút vốn trên thị trường liên NH thông qua dịch vụ thanh toán liên NH, tăng tỷ trọng nguồn vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn ngoại tệ. Bên cạnh, đó NHTMCP cần nâng cao khả năng sinh lời và khả năng thanh khoản.
3.2.2 Xử lý nợ xấu
Lợi nhuận của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam chủ yếu thu được từ lãi của hoạt động cấp tín dụng, trong khi hoạt động cấp tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro phát sinh nợ xấu. Do đó, trước hết cần nhìn nhận nợ xấu là một điều không thể tránh khỏi trong một hệ thống ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Thậm chí nợ xấu trong một giới hạn nhất định còn là một điều nên có vì đó là dấu hiệu quan trọng cho thấy các chủ thể trong nền kinh tế, cả con nợ lẫn chủ nợ, đã thực thi các quyết định, hoạt động có tính rủi ro. Ở các nước phát triển trên thế giới và thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ xấu không vượt quá 3% vẫn bảo đảm an toàn cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh. Do đó, ở Việt Nam cần coi việc xử lý nợ xấu là hoạt động thường xuyên và liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần
Thứ nhất: Rà soát lại toàn bộ các khoản nợ, đánh giá khách quan, đầy đủ, chính xác rủi ro, khả năng trả nợ của khách hàng, các nguồn thu nợ
Với khối lượng dư nợ lớn, hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp cho nên việc rà soát lại toàn bộ các khoản nợ trong toàn hệ thống nhằm đánh giá lại một cách chính xác, khách quan về khả năng trả nợ của khách hàng, những rủi ro mà khoản nợ mang lại cho NHTMCP Việt Nam là rất cần thiết. Giải pháp này đòi hỏi sự quyết tâm của toàn ngân hàng, hệ thống các văn bản hướng dẫn cụ thể có thể áp dụng cho các ngân hàng với quy mô, đặc điểm khác nhau. Công việc này
phải được làm thường xuyên, định kỳ để hiểu rõ hơn khách hàng cũng như phát
hiện
ra nhu cầu
đầu
tư của
khách hàng, xây dựng
nên các mối
quan hệ truyền
thống với các khách hàng có uy tín, tìm kiếm khách hàng có tiềm năng phát triển.
Thứ hai: Cơ cấu lại nợ trên cơ sở đánh giá đầy năng lực trả nợ của khách hàng
đủ khả năng phục hồi
Chỉ được áp dụng các biện pháp này trong trường hợp khách hàng có khả năng phục hồi năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, tránh tư tưởng áp dụng các biện pháp này để che dấu nợ xấu. Cụ thể:
Thực hiện cơ cấu lại nợ đối với những khách hàng có khả năng phục hồi và phát triển ổn định lâu dài nhưng gặp khó khăn tạm thời. Bám sát khách hàng, đặc biệt là các KH đã cơ cấu để đôn đốc thu nợ nhằm giảm dần nợ xấu. Giải pháp này
chỉ áp dụng
đối
với
các khách hàng khó khăn trả nợ do nguyên nhân khách
quan, việc cơ cấu lại có thể giúp cho khách hàng điều chỉnh dòng tiền, từ đó thu
xếp
hoàn trả đầy
đủ nợ gốc
và lãi cho ngân hàng. Biện
pháp này đòi hỏi
NHTMCP Việt
Nam phải
xác định
chính xác nguyên nhân dẫn
đến việc khách
hàng khó khăn trong việc trả nợ. Từ các nguyên nhân khách quan cụ thể đó, các
bộ phận
liên quan phải
đề xuất
phương
án cụ thể để cơ cấu
lại
khoản nợ
cho phù hợp. Tránh trường hợp nhầm lẫn, sai sót dẫn đến rủi ro chồng xấu chồng nợ xấu cho ngân hàng.
rủi ro, nợ
Tiếp tục và tăng cường các biện pháp tư vấn để hỗ trợ khách hàng giải
quyết những
vấn
đề khó khăn trong quản
lý tài chính để từ đó giúp khách hàng
vượt qua các trở ngại, hoạt động ổn định, tạo nguồn thu để trả nợ. Cho nên việc
tư vấn quản lý tài chính cho khách hàng từ ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính chuyên nghiệp là rất cần thiết, giúp khách hàng nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, hồi phục khả năng trả nợ cho ngân hàng. Đối với các
khoản cho vay nông nghiệp, nông thôn, nếu rủi ro xảy ra do nguyên nhân khách
quan như thiên tại, lũ lụt, hạn hán… Nên xem xét miễn, giảm độ phù hợp để tạo động lực khách hàng hoàn trả nợ theo điều chỉnh
lãi tiền vay ở mức kiện đã được điều
Thứ ba: Tăng cường các biện pháp thanh lý nợ, xử lý dứt điểm nợ không có khả năng thu hồi
Nguyên tắc đối với giải pháp này là sử dụng tất cả các biện pháp phù hợp để tận thu khoản nợ xấu, dứt điểm thu hồi nợ. Hoàn thiện hồ sơ pháp lý đối với
các khoản
nợ có TSBĐ, phối hợp
với khách hàng, chính quyền
địa
phương để
hoàn thiện
các thủ tục
pháp lý chuyển
quyền sở hữu tài sản tiến hành xử lý
TSBĐ. Hiện tại, BĐS là tài sản đảm bảo chủ yếu của NHTMCP Việt Nam. Tài sản đảm bảo BĐS ở đây bao gồm nhà đất, bất động sản dự án. Tuy nhiên, cần
lưu ý giá trị tài sản đảm bảo “ghi trên hợp đồng bảo đảm” sẽ là căn cứ để tính
số tiền dự phòng cụ thể cho phần lớn các loại tài sản bảo đảm (về cơ bản loại
trừ vàng và các loại chứng khoán). Như vậy số tiền dự phòng cụ thể không chỉ
phụ thuộc vào giá trị khoản
nợ và tỷ lệ trích lập
dự phòng mà còn phụ thuộc
vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo
tỷ lệ phần
trăm lớn
hơn
giá trị khoản
nợ thì số tiền
dự phòng cũng bằng
không, có nghĩa là c á c NHTMCP Việt
Nam trên thực
tế không phải
lập dự
phòng cho khoản nợ đó. Cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung trong cả
nước về giao dịch bảo đảm giúp truy cập, đăng ký nhanh và cung cấp thông tin
kịp
thời
về tài sản
đảm
bảo.
Vấn
đề tra cứu
về tình trạng
tài sản
đảm
bảo
đang như thế nào, đang tranh chấp,
kiện
tụng
hay đang trong quá trình xử lý
nợ… Tất cả các thông tin khi được hệ thống hoá sẽ giúp cho ngân hàng có thêm
thông tin trong quá trình thẩm định tài sản, do đó sẽ giảm thiểu đến mức tối đa
rủi
ro khi cấp
tín dụng
đối
với
khách hàng, ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu phát
sinh.
Thứ tư: Tăng mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Các ngân hàng TMCP chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận trước mắt để tăng khả năng tự chủ tài chính. Việc làm này sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp
3.2.3 Hoàn thiện chiến lược và chính sách tín dụng
Để đảm
bảo
chiến lượ c và
chính sách tín dụng
được
sử dụng
và vận
dụng hữu ích công tác nâng cao CLTD thì tại mỗi NHTMCP Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung sau:
Một là:
Định
lượng
rõ ràng các chỉ tiêu kế hoạch
và trách nhiệm
về hoạt
động tín dụng. Để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã được Đại hội đồng cổ đông
đặt
ra thì Hội đồng quản trị định
hướng
chiến
lược
hoạt
động, Ban điều hành
triển khai thực thi hành động theo các chiến lược đã được Hội đồng quản trị định
hướng, toàn bộ CBNV nghiệp vụ TD hành động vì mục tiêu TD đã được đặt ra.
Thực tế cho thấy, các chỉ tiêu kế hoạch về hoạt động TD được Đại hội đồng cổ đông đặt ra là dư nợ, nợ xấu và lợi nhuận trước thuế. Từ các chỉ tiêu kế hoạch này, từng CBTD sẽ được phân bổ theo từng chỉ tiêu kế hoạch cụ thể. Đây chính là tiêu chí để đánh giá trách nhiệm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mỗi CBNV.
Hai là: Hoạch
định
hệ thống
phân cấp
báo cáo về hoạt
động
tín dụng rõ
ràng theo chiều
dọc. Việc
hoạch
định
này sẽ phù hợp
với
xu hướng
đang dần
chuyển
đổi
mô hình quản
trị RRTD phân tán sang mô hình quản
lý RRTD tập
trung của
các NH hiện
nay theo đề nghị của
Basel 2 nhằm
chuyên môn hóa các
chức năng trong quy trình tín dụng, từ đó hạn chế thấp nhất các RRTD có thể phát sinh. NH cần rà soát lại việc hệ thống phân cấp báo cáo về hoạt động TD nhằm
tránh các trường
hợp
báo cáo chồng
chéo, cùng một
báo cáo nhưng
chi nhánh
phải gửi qua nhiều phòng ban trong cùng một thời gian.
Ba là, chính sách tín dụng trước hết các NHTMCP phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan đến chỉ đạo hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở đặc thù của hệ thống mỗi ngân hàng thương mại để chi tiết hóa
các nội dung. Chính sách tín dụng được coi kim chỉ nam hành động cho toàn hệ
thống thực
hiện
do đó cần
chi tiết
hóa giúp dễ dàng trong quá trình triển
khai
thực
hiện,
cụ thể hoá các quy định
về các đối
tượng
khách hàng cần
tập
trung
cấp
tín dụng,
đối
tượng
khách hàng hạn chế và không cấp tín dụng, cơ cấu cấp
tín dụng theo kỳ hạn, theo ngành, theo khu vực phù hợp cũng phải cụ thể. Chính sách tín dụng phải được xây dựng trên những cơ sở nhất định theo các quy định của pháp luật, các qui định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng; định
hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; phương châm kinh doanh đảm bảo an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Xây dựng chính sách tín dụng đúng, đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc phát
triển
hoạt động tín dụng,
chất lượng tín dụng đi đúng định hướng và trong tầm
kiểm soát. Thông qua các nội dung và định hướng chính sách tín dụng, hoạt động
tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng đến các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng, theo đó chính sách tín dụng phải quy định và chỉ ra trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến hoạt
động
thẩm
định
cấp
tín dụng
và hoạt
động
giám sát sau khi cấp
tín dụng
của
NHTMCP. Chính sách tín dụng cần mang tính dài hạn đón đầu được những thay
đổi về tình hình kinh tế tài chính; chính sách tín dụng cần đưa ra các công cụ
để lượng hóa rủi ro cũng như cảnh báo rủi ro cụ thể nhằm giúp cán bộ tín dụng
có thể nhận diện sớm rủi ro và đưa ra biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Bốn là, bên cạnh đó, mỗi một ngân hàng TMCP Việt Nam cần phải có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh và chiến lược
phát triển
của
ngân hàng thương
mại
mình dựa
trên điều
kiện
thị trường,
môi
trường chính sách vĩ mô và đồng thời phải có những nội dung cơ bản sau:
Phân cấp quản lý ưu tiên khách hàng và đối tượng khách hàng theo từng
vùng địa
lý theo chiến
lược
của
ngân hàng. Quy định
rõ ràng những trường hợp
khuyến khích cho vay, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay và không cho vay.
Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện với một
hoặc
một
số nhóm khách hàng. Để ra quyết
định quan hệ tín dụng đối
với một
đối
tượng
khách hàng, ngân hàng phải
phân tích tình hình khách hàng một
cách
toàn diện. Phải
căn cứ vào danh mục tín dụng ngân hàng: loại tín dụng,
kỳ hạn
tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng.
Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ các bộ phận có chức năng cấp tín dụng. Quy trình
tiếp
nhận,
kiểm
tra và ra quyết
định
đối
với
các nhu cầu
vay vốn
của
khách
hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế được rủi ro.
Đồng
thời, chính
sách tín dụng
phải
đạt
được
các mục
tiêu: Tuân thủ
nghiêm ngặt
các quy định
hoạt
động
tín dụng
của
NHNN, đồng
thời
phải được
xây dựng dựa trên sự phân tích, đánh giá, dự báo tình hình kinh tế xã hội để xây dựng những cơ cấu tín dụng hợp lý, mức giới hạn cho vay, thị trường hướng tới. Các khoản vay phải phù hợp và có khả năng thu hồi cao nhất. Tạo ra các khoản đầu
tư vốn với mức sinh lời cao và rủi ro thấp, khuyến khích mở rộng tín dụng đáp ứng
nhu cầu của thị trường, sản phẩm cho vay, mục đích sử dụng vốn. Phải xác lập
được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp phê duyệt, cấp quản lý điều
hành trong hoạt động tín dụng. Có sự phân công, quản
lý, kiểm
tra chéo và phối
hợp giữa các bộ phận phòng ban trong điều hành và kiểm soát hoạt động tín dụng, đồng thời phải phù hợp với khả năng và trình độ của cán bộ tín dụng đảm nhận trong từng khâu nghiệp vụ.
Năm là, đẩy mạnh công tác giám sát và thực hiện đúng chính sách tín dụng
ban hành. Công tác giám sát không chỉ dừng lại ở kiểm
soát giới
hạn
quy mô tín
dụng, kiểm soát các chỉ đạo cho vay bằng ngoại tệ mà cần đẩy mạnh kiểm soát
các chính sách tín dụng liên quan đến ngành nghề, đối tượng cho vay nhằm kiểm soát tốt danh mục tín dụng giải ngân. Để đạt được các mục tiêu này, chính sách tín dụng cần phải mang tính linh hoạt, mềm dẻo và được cập nhật thường xuyên để phản ánh môi trường hiện tại và xu thế phát triển của nền kinh tế.
Sáu là: Thực hiện đầy đủ và thường xuyên rà soát lại quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế các sai sót, rủi ro
khi cho vay và nâng cao chất lượng của khoản vay. Do vậy,
đòi hỏi
bộ phận
tín
dụng
phải
thực
hiện
nghiêm túc quy trình tín dụng
từ khâu nhận
hồ sơ,
thẩm
định khách hàng, thẩm định dự án, giải ngân cho đến quản lý và thu hồi nợ vay.
Bên cạnh
đó, do điều
kiện,
môi trường
kinh doanh của
ngân hàng và doanh
nghiệp
luôn thay đổi,
đòi hỏi
phải
thường
xuyên xem xét lại
quy trình tín dụng
để điều chỉnh, bổ sung kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế nhằm đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Xác định
các yếu tố cần thẩm định đối với từng khoản vay để làm cơ sở thu thập thông
tin. Các yếu
tố cần
thẩm định
ở đây là: Thẩm định khách hàng, phân tích khoản
vay để xác định
năng lực
trả nợ của
khách hàng, dự báo những rủi ro tiềm ẩn,
từ đó đề ra biện pháp quản lý khách hàng để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Tuy
nhiên, hoạt động tín dụng hết sức đa dạng, mỗi khoản vay đều có tính chất đặc
thù riêng, do đó ngoài các yếu
tố cần
thẩm định
theo quy trình như: hồ sơ pháp
lý của khách hàng vay vốn, năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, tính
khả thi của dự án, phương án sản xuất kinh doanh… thì đối với từng khoản vay
cụ thể ngân hàng cần thẩm định thêm các yếu tố đặc thù riêng biệt như: đối với
cho vay theo dự án đầu
tư phải
xác định xem dự án có phù hợp
với
hoàn cảnh
kinh tế hay không, các sản
phẩm
và đối
thủ cạnh
tranh trên thị trường,
chất
lượng
sản
phẩm
mà dự án tạo
ra so với
các sản
phẩm hiện có trên thị trường,
khả năng cạnh
tranh và chiếm lĩnh thị phần
của
sản
phẩm,
các yếu
tố của
môi
trường
kinh doanh
ảnh
hưởng
tới
đến
dự án…; đối
với
cho vay cán bộ công
nhân viên không có đảm
bảo
bằng
tài sản
trả bằng
thu nhập
thì phải
là cán bộ
công nhân viên có hợp
đồng
lao động
dài hạn,
có uy tín, có nguồn
thu nhập
tương đối thường xuyên và phải được cơ quan xác nhận thu nhập.
Bảy là: Nâng cao chất lượng thẩm định kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng. Thẩm định là khâu quan trọng để giúp ngân hàng
đưa ra các quyết định
đầu
tư một
cách chuẩn
xác, từ đó nâng cao chất
lượng
của
khoản
vay, đảm
bảo
cho mục
tiêu tăng trưởng
gắn
với
hiệu
quả tín dụng
vững chắc. Để nâng cao chất
lượng
thẩm
định
dự án đầu
tư,
ngoài việc
chú ý
thực
hiện
đầy
đủ,
chính xác các nội
dung trong quy trình thẩm
định,
còn phải
chú ý nâng cao chất
lượng
đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định,
có trình độ
và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, có khả năng xử lý công việc, có khả năng
phân tích và thẩm
định
dự án đầu
tư cũng như kế hoạch
sản
xuất
kinh doanh
của khách hàng để có quyết định cho vay vừa đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Thẩm định chặt chẽ tính pháp lý của
khoản
vay. Thẩm
định
không đúng về pháp lý của
khoản
vay, khách hàng vay
vốn
là tư nhân cá thể không đủ năng lực
hành vi, cho vay tổ chức
thiếu tư
cách pháp nhân, người đại diện tổ chức không đủ thẩm quyền ký kết hợp đồng
tín dụng,
hợp
đồng
đảm
bảo
tiền
vay, mục
đích sử dụng
vốn
vay không
hợp
pháp, tài sản
đảm
bảo
nợ cho vay không đủ điều
kiện
thế chấp,
không
thực
hiện ưu
tiên thanh toán đối
với
các giao dịch
đảm
bảo…là
một
trong
những
rủi ro có khả năng gây tổn thất nặng nề nhất cho khoản vay.
Tám là: Phân tích và đánh giá chính xác năng lực tài chính và năng lực
kinh doanh của khách hàng. Công việc trên giúp cho ngân hàng nắm được thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng về triển vọng và khả năng thanh
toán của khách hàng thông qua phân tích chỉ tiêu về cơ cấu tài sản có, tài sản nợ,
cơ cấu nguồn vốn, đánh giá các chỉ tiêu tài sản có trong khâu dự trữ và khâu luân
chuyển
có phù hợp
với
loại
hình và tình hình sản
xuất
kinh doanh của
khách
hàng không, phân tích các chỉ tiêu khả năng thanh toán để đánh giá tính cân đối
của
việc
sử dụng
tài khoản
nợ và khả năng tự chủ về tài chính, phân tích các
chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân, doanh thu trên tổng tài sản
để đánh giá khả năng về triển vọng
của
khách hàng, phân tích các chỉ tiêu đòn
cân nợ để đánh giá rủi
ro tài chính, phân tích các chỉ tiêu thu nhập
để đánh giá
hiệu
quả hoạt
động
của
khách hàng
Năng lực
kinh doanh của
khách hàng được phân tích thông qua các yếu tố
như máy móc thiết
bị,
công nghệ hiện
có, các yếu
tố đầu
vào như nguyên liệu,
lao động,
các yếu
tố đầu
ra thị trường
tiêu thụ sản
phẩm,
thị phần
đang chiếm
lĩnh, giá cả, chất lượng sản phẩm, các dịch vụ đi kèm …để đánh giá về thực trạng
và triển
vọng
hoạt
động kinh doanh của
khách hàng trên cơ sở đó dự báo về sự
tồn
tại
và phát triển
của
doanh nghiệp
trong tương
lai. Đánh giá năng lực
kinh
doanh của khách hàng có quy mô lớn còn phải phân tích chiến lược kinh doanh mà
khách hàng đã đề ra gồm:
chiến
lược
hoạch
định
nguồn
cung cấp
nguyên liệu,
chiến lược về sản phẩm và phân phối sản phẩm, chiến lược về phát triển nguồn
nhân lực, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng
thị phần,
chiến
lược
phát triển
quy
mô sản
xuất
kinh doanh, chiến
lược
xây dựng
thương
hiệu.
Chín là: Thu thập và đánh giá các thông tin phi tài chính
Phân tích thông tin phi tài chính giúp ngân hàng xác định
thiện
chí và khả
năng trả nợ của khách hàng đối với khoản vay. Thông tin tài chính và phi tài chính
bổ sung chặt
chẽ cho nhau và đóng vai trò chủ yếu
trong việc ra quyết định cho
vay ngân hàng. Thông thường
việc
phân tích các thông tin phi tài chính của
một
khách hàng thông qua các thông tin sau: thông tin về năng lực và khả năng điều
hành của bộ máy quản lý, uy tín của doanh nghiệp trong giao dịch với ngân hàng, các yếu tố phản ánh từ bên ngoài.
Phân tích thông tin về năng lực và khả năng điều hành của bộ máy quản lý
doanh nghiệp thông qua các thông tin về vị trí của bộ máy lãnh đạo đối với người
lao động để nhận xét và đánh giá khả năng điều hành của bộ máy lãnh đạo. Thu
nhập và phân tích các thông tin về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của bộ