niệm năng lực theo Chương trình GDPT tổng thể của Việt Nam (2018): “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.” [7].
1.1.1.2. Các năng lực chung
Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được góp phần hình thành, phát triển ở tất cả các môn học và hoạt động giáo dục như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Chương trình GDPT tổng thể quy định 3 năng lực chung cần hình thành cho HS tiểu học, gồm: năng lực tự chủ và tự học; năng lực giao tiếp, hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo với các yêu cầu như sau [7]:
Bảng 1.1. Các năng lực hình thành cho HS tiểu học
Yêu cầu cần đạt cấp Tiểu học | |
Năng lực tự chủ và tự học | |
Tự học | Tự làm được những việc của mình ở nhà và ở trường theo sự phân công, hướng dẫn |
Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng | Có ý thức về quyền và mong muốn của bản thân; bước đầu biết cách trình bày và thực hiện một số quyền lợi và nhu cầu chính đáng. |
Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình | - Nhận biết và bày tỏ được tình cảm, cảm xúc của bản thân, biết chia sẻ tình cảm, cảm xúc của bản thân với người khác. - Hoà nhã với mọi người; không nói hoặc làm những điều xúc phạm người khác. - Thực hiện đúng kế hoạch học tập, lao động; không mải chơi, làm ảnh hưởng đến việc học và các việc khác. |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức dạy học Luyện từ và câu theo hướng phát triển năng lực trong môn Tiếng Việt lớp 5 - 1
- Tổ chức dạy học Luyện từ và câu theo hướng phát triển năng lực trong môn Tiếng Việt lớp 5 - 2
- Quan Điểm Về Dạy Học Luyện Từ Và Câu Theo Hướng Phát Triển Năng Lực
- Một Số Phương Pháp Dạy Học Phát Triển Năng Lực Học Sinh
- Khảo Sát Thực Trạng Dạy Học Phân Môn Luyện Từ Và Câu Trong Môn Tiếng Việt Lớp 5
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
- Tìm được những cách giải quyết khác nhau cho cùng một vấn đề. - Thực hiện được các nhiệm vụ khác nhau với những yêu cầu khác nhau. | |
Định hướng nghề nghiệp | - Biết tên, hoạt động chính và vai trò của một số nghề nghiệp; liên hệ được những hiểu biết đó với nghề nghiệp của người thân trong gia đình. |
Tự học, tự hoàn thiện | - Có ý thức tổng kết và trình bày được những điều đã học. - Nhận ra và sửa chữa sai sót trong bài kiểm tra qua lời nhận xét của thầy cô. - Có ý thức học hỏi thầy cô, bạn bè và người khác để củng cố và mở rộng hiểu biết. - Có ý thức học tập và làm theo gương những người tốt. |
Năng lực giao tiếp và hợp tác | |
Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái độ giao tiếp | - Nhận ra được ý nghĩa của giao tiếp trong việc đáp ứng các nhu cầu của bản thân. - Tiếp nhận được những văn bản về đời sống, tự nhiên và xã hội có sử dụng ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh như truyện tranh, bài viết đơn giản. - Bước đầu biết sử dụng ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, cử chỉ để trình bày thông tin và ý tưởng. - Tập trung chú ý khi giao tiếp; nhận ra được thái độ của đối tượng giao tiếp. |
Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá giải các mâu thuẫn | - Biết cách kết bạn và giữ gìn tình bạn. - Nhận ra được những bất đồng, xích mích giữa bản thân với bạn hoặc giữa các bạn với nhau; biết nhường bạn hoặc thuyết phục bạn. |
Xác định mục đích và phương thức hợp tác | Có thói quen trao đổi, giúp đỡ nhau trong học tập; biết cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ học tập theo sự hướng dẫn của thầy cô. |
Hiểu được nhiệm vụ của nhóm và trách nhiệm, hoạt động của bản thân trong nhóm sau khi được hướng dẫn, phân công. | |
Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác | Nhận biết được một số đặc điểm nổi bật của các thành viên trong nhóm để đề xuất phương án phân công công việc phù hợp |
Tổ chức và thuyết phục người khác | Biết cố gắng hoàn thành phần việc mình được phân công và chia sẻ giúp đỡ thành viên khác cùng hoàn thành việc được phân công. |
Đánh giá hoạt động hợp tác | Báo cáo được kết quả thực hiện nhiệm vụ của cả nhóm; tự nhận xét được ưu điểm, thiếu sót của bản thân theo hướng dẫn của thầy cô. |
Hội nhập quốc tế | - Có hiểu biết ban đầu về một số nước trong khu vực và trên thế giới. - Biết tham gia một số hoạt động hội nhập quốc tế theo hướng dẫn của nhà trường. |
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo | |
Nhận ra ý tưởng mới | Biết xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới đối với bản thân từ các nguồn tài liệu cho sẵn theo hướng dẫn. |
Phát hiện và làm rõ vấn đề | Biết thu nhận thông tin từ tình huống, nhận ra những vấn đề đơn giản và đặt được câu hỏi. |
Hình thành và triển khai ý tưởng mới | Dựa trên hiểu biết đã có, biết hình thành ý tưởng mới đối với bản thân và dự đoán được kết quả khi thực hiện. |
Đề xuất, lựa chọn giải pháp | Nêu được cách thức giải quyết vấn đề đơn giản theo hướng dẫn. |
Thiết kế và tổ chức hoạt động | - Xác định được nội dung chính và cách thức hoạt động để đạt mục tiêu đặt ra theo hướng dẫn. - Nhận xét được ý nghĩa của các hoạt động |
Tư duy độc lập | Nêu được thắc mắc về sự vật, hiện tượng xung quanh; không e ngại nêu ý kiến cá nhân trước các thông tin khác nhau về sự vật, hiện tượng; sẵn sàng thay đổi khi nhận ra sai sót. |
Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân
1.1.1.3. Năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt
a. Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ là năng lực sử dụng tiếng nói và chữ viết trong giao tiếp, thể hiện ở các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Đây chính là biểu hiện rõ nhất của năng lực giao tiếp, một năng lực chung hết sức quan trọng đối với người học.
Năng lực ngôn ngữ được thể hiện thông qua các tiêu chí sau:
- Đọc trôi chảy và hiểu đúng các văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau có chủ đề, nội dung phù hợp với lứa tuổi; biết phản hồi về các văn bản đã học; có thói quen tìm tòi, mở rộng phạm vi đọc.
- Viết được các văn bản thuộc kiểu loại khác nhau có chủ đề, nội dung phù hợp với lứa tuổi phục vụ yêu cầu học tập và đời sống; bảo đảm các yêu cầu về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp và phong cách văn bản.
- Biết nói rõ ràng, rành mạch; biết trình bày một cách thuyết phục và bảo vệ quan điểm của cá nhân, có tính đến quan điểm của người khác trong giao tiếp.
- Hiểu ý người khác trong giao tiếp thông thường; chắt lọc được thông tin quan trọng, bổ ích từ các bài thuyết trình, các cuộc đối thoại, thảo luận, tranh luận và có phản hồi linh hoạt và phù hợp.[26]
Chương trình GDPT môn Ngữ văn đưa ra các yêu cầu cần đạt về năng lực ngôn ngữ của HS tiểu học như sau:
Đọc đúng, trôi chảy và diễn cảm văn bản; hiểu được nội dung chính của văn bản, chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc. Ở cấp tiểu học, yêu cầu về đọc gồm yêu cầu về kĩ thuật đọc và kĩ năng đọc hiểu. Đối với HS các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 2), chú trọng cả yêu cầu đọc đúng với tốc độ phù hợp và đọc hiểu nội dung đơn giản của văn bản. Đối với HS lớp 3, lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội dung cụ thể, hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra được từ văn bản.
Từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản. Viết được văn bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những câu chuyện do HS tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của HS. Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của HS khi đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho HS nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn bản như: bản tự thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ,...; bước đầu biết viết theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; bước đầu biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản.
Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe.
b. Năng lực văn học
Năng lực văn học là khả năng tiếp nhận, giải mã cái hay, cái đẹp của văn bản văn học, thể hiện chủ yếu ở việc HS biết đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật thông qua các văn bản văn học; nhận biết, lí giải, nhận xét và đánh giá những đặc sắc về hình thức văn bản văn học, từ đó biết tiếp nhận đúng và sáng tạo các thông điệp nội dung (nghĩa, ý nghĩa, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng). Năng lực văn học còn thể hiện ở khả năng tạo lập văn bản, biết cách biểu đạt (viết và nói) kết quả cảm nhận, hiểu và lí giải giá trị thẩm mĩ của văn bản văn học; bước đầu có thể tạo ra được các sản phẩm văn học. [26]
Năng lực văn học gắn bó thống nhất với năng lực thẩm mỹ. Đó là khả năng nhận biết cái đẹp; phân tích, đánh giá được cái đẹp, tái hiện và tạo ra cái đẹp; sống nhân ái, nhân văn...
Chương trình GDPT môn Ngữ văn đưa ra yêu cầu cần đạt về năng lực văn học của HS tiểu học như sau: [8]
Phân biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn xuôi và đoạn, bài văn vần); nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết; bước đầu hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, cốt truyện, vần thơ, so sánh, nhân hoá). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong viết và nói.
Đối với HS lớp 1 và lớp 2: nhận biết được văn bản nói về ai, về cái gì; nhận biết được nhân vật trong các câu chuyện, vần trong thơ; nhận biết được truyện và thơ.
Đối với HS lớp 3, lớp 4 và lớp 5: biết cách đọc diễn cảm văn bản văn học; kể lại, tóm tắt được nội dung chính của câu chuyện, bài thơ; nhận xét được các nhân vật, sự việc và thái độ, tình cảm của người viết trong văn bản; nhận biết được thời gian và địa điểm, một số kiểu vần thơ, nhịp thơ, từ ngữ, hình ảnh đẹp, độc đáo và tác dụng của các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh. Hiểu được ý nghĩa hoặc bài học rút ra từ văn bản. Viết được đoạn, bài văn kể chuyện, miêu tả thể hiện cảm xúc và khả năng liên tưởng, tưởng tượng.
1.1.1.4. Quan điểm về dạy học theo hướng phát triển năng lực
Dạy học định hướng phát triển năng lực hay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhận lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.” [4]
Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm đảm bảo đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Dạy học theo hướng này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình dạy học định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS. Tiếp cận năng lực “đầu ra” là cách tiếp cận nêu rõ kết quả - những năng lực mà người học mong muốn đạt được ở cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học biết gì và có thể làm được gì?
Để việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực có hiệu quả cần phải bắt đầu từ bức tranh rõ ràng về năng lực quan trọng mà người học cần đạt được, tiếp đến là xây dựng và phát triển nội dung, kế hoạch dạy học và các phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo mục đích của quá trình giáo dục. Có thể thấy yếu tố quan trọng của giáo dục là phải xây dựng được các chuẩn đầu ra rõ ràng, thể hiện mục tiêu giáo dục, thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có thể đạt được các mục tiêu ấy. Đối với HS, mục tiêu cần đạt trước hết là những năng lực chung, những năng lực tối thiểu để con người có thể sống hòa đồng và phát triển trong một cộng đồng. Từ các năng lực chung, mỗi môn học lại xác định một số năng lực đặc thù - những năng lực mà môn học đó có ưu thế hình thành và phát triển cho HS.
Để phát triển năng lực của HS, phương hướng là phải chuyển quá trình thuyết giảng một cách bình quân, áp đặt của GV thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của HS. Mỗi HS cần biết mục tiêu học tập và được giao nhiệm vụ học tập cụ thể, có thể tự điều chỉnh hoạt động của chính mình để việc học phù hợp với mức độ tiếp thu của bản thân. GV chủ động tổ chức cho HS thực hiện
hoạt động học tập theo nhóm, theo cặp, chỉ tập trung HS để giảng giải khi cần nhận xét, đánh giá chung hoặc hướng dẫn hoạt động cho toàn lớp, cần đặc biệt quan tâm tới các dạng hoạt động thực hành và ứng dụng trong đời sống thực tế của HS, khuyến khích HS mở rộng vốn kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau (từ gia đình, cộng đồng, làng bản, thôn xóm).
Để HS có thể hoạt động học tập môn Tiếng Việt chủ động, có cơ hội hình thành và phát triển năng lực, GV cần tích cực sử dụng kiểu dạy học thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, khuyến khích tổ chức các hoạt động độc lập, tự học hoặc nhóm hợp tác của HS. GV thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập giúp HS tự phát hiện, phân tích và vận dụng kiến thức. Căn cứ vào mục tiêu bài học hoặc mức độ yêu cầu cần đạt, từ các kiến thức trong SGK, GV thiết kế các hoạt động học (theo hệ thống) và tổ chức cho HS hoạt động trong từng tiết học, hướng dẫn HS tự tìm tòi, phát hiện để HS được phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự hình thành kiến thức từ chính các hoạt động học của mình, tất cả HS đều đạt được mức độ cần đạt của bài học dẫn đến đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng chương trình môn học.
Dạy học môn Tiếng Việt cần phải gắn liền với thực tế cuộc sống thực của HS, gắn với hoạt động đọc, nghe, nói, viết. GV dẫn dắt để HS từ những vốn kinh nghiệm đã có hình thành những kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên; động viên HS tập suy nghĩ, tập quan sát, tập nói, tập diễn đạt theo cách riêng của mình.
Để việc tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực có hiệu quả thì mỗi GV tự chịu trách nhiệm trong việc giảng dạy ở mỗi tiết học. GV cần linh hoạt áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học: Nên khuyến khích HS phối hợp giữa học cá nhân, học theo nhóm nhỏ, theo tổ, lớp và cố gắng độc lập suy nghĩ trong quá trình học tập; tổ chức hoạt động nhóm hợp lí, đúng mục đích; sử dụng SGK, đồ dùng dạy học linh hoạt và hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí; tạo không khí thoải mái, gắn liền với thực tế, gần gũi với đời sống hằng ngày