– Như đã nói, VB kí thể hiện đậm nét cái tôi của tác giả, vì vậy, khi dạy ĐHVB thể loại này, GV cần nghiên cứu kỹ VB, phát hiện nét độc đáo trong phong cách của tác giả thể hiện qua VB để chọn cách đọc phù hợp. Ví dụ, với VB Ai đã đặt tên cho dòng sông, giọng đọc nhẹ nhàng, khoan thai, để người nghe có cảm giác đang chiêm ngưỡng dòng sông Hương. Cách đọc này phù hợp ngòi bút trữ tình, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cách đọc Người lái đò sông Đà cần linh hoạt. Lúc thì chậm rãi như hướng dẫn người xem cảnh hùng vĩ của sông Đà. Lúc thì khẩn trương, nhanh và nhấn giọng ở những chỗ tác giả khắc họa “hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà”.
Với đặc trưng của thể kí như đã trình bày, xuất phát từ quan niệm xem kí là một thể loại chính thức của văn học có tính nghệ thuật, HĐ dạy của GV theo các thể tài thuộc kí, GV cần chú ý rèn luyện cho HS cách nhận biết, phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan đến đặc trưng thi pháp thể loại như cách ghi chép, cách kể chuyện, chất trữ tình, tính phi hư cấu, cách miêu tả, trần thuật, … để thấy cái hay, cái đẹp của áng văn ghi chép về con người, sự việc, phong cảnh, dưới ngòi bút tài hoa và vẻ đẹp tâm hồn nhà văn.
Tóm lại, HĐ của GV trong dạy học ĐHVB văn học (với 4 thể loại: trữ tình, tự sự, kịch, kí) theo CT giáo dục phát triển NL cho HS ở THPT vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nói là khoa học vì yêu cầu rèn luyện NLĐHVB gắn với từng thể loại đã định hướng cho việc cấu trúc bài dạy từ việc xác định trọng tâm bài học, cách đánh giá tổng kết, các bài tập thường xuyên của bài học. Nói là nghệ thuật vì đặc trưng thi pháp thể loại đòi hỏi GV phải biết cách tổ chức HĐ cho HS để họ cảm thụ và phân tích tác phẩm, thấy được giá trị thẩm mỹ của yếu tố hình thức tác phẩm trong tương quan với sự biểu đạt nội dung. Theo đó xây dựng MHHĐ của GV để hình thành và phát triển NLĐH (tri thức, kĩ năng, thái độ) của HS trong dạy ĐHVB văn học phải bắm sát đặc trưng của từng thể loại và yêu về NLĐH của CTNV như đã nói.
1.5.5. Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận
Trong CT NV hiện nay, văn nghị luận được hiểu bao gồm 2 thể loại: nghị luận xã hội (nghị luận về một vấn đề thuộc đời sống chính trị, xã hội, tư tưởng, học thuật) và nghị luận văn học (nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực văn học như phê bình
văn học, nghiên cứu văn học,… ). Đặc điểm chung của văn nghị luận là người viết trình bày suy nghĩ, bàn bạc, tranh luận một vấn đề thuộc đời sống chính trị, xã hội, đạo đức, văn học nghệ thuật,… bằng cách dùng lý lẽ, lập luận, bằng chứng (người thật, việc thật) làm sáng tỏ vấn đề, từ đó có cơ sở để thuyết phục người đọc theo quan điểm của mình.
Dù là văn nghị luận trung đại hay hiện đại, các VB được đưa vào SGK đều là văn thuyết lí, trực tiếp trình bày các luận điểm, thể hiện những tư tưởng, quan điểm, đạo lí ở đời, có thể là các tư tưởng về chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, văn học nghệ thuật... Các áng văn nghị luận đặc sắc thường nêu vấn đề mới mẻ, độc đáo, thể hiện những tư tưởng, lí tưởng cao đẹp của con người. Đó có thể là những tư tưởng chính nghĩa, quan điểm nhân văn, lập trường cách mạng... Các tư tưởng ấy có sự sâu sắc của lí trí, sự phóng khoáng của tâm hồn, sự cảm của ý chí, sự kiên định của niềm tin. Vì vậy, khi hướng dẫn HS đọc văn nghị luận, cần phải giúp HS nắm được các tư tưởng lớn và cách suy nghĩ của người viết.
“Văn nghị luận không chỉ có tư tưởng đúng đắn, lí trí sắc bén mà còn có những tình cảm lớn làm thành mạch chìm của nó: tình yêu chân lí, yêu chính nghĩa, yêu đất nước, yêu nhân dân, yêu con người. Thiếu tình cảm lớn thì văn nghị luận sẽ trở nên khô khan, dù lí lẽ có hay cũng khó đến được với trái tim con người. Người ta thường nói “thấu tình đạt lí” là như vậy. Văn nghị luận bồi dưỡng cho con người những tình cảm sâu sắc, đúng đắn về thời đại, dân tộc, nhân loại. Do đó, khi hướng dẫn học sinh đọc văn nghị luận, cần phải giúp học sinh cảm nhận được những lời tâm huyết, những nhịp đập trái tim của tác giả, biết phân biệt cái thật, cái giả trong đời sống”. [180]
Văn nghị luận đòi hỏi sự chặt chẽ của lập luận, sự xác đáng của luận cứ, sự chính xác của lời văn. Văn nghị luận tuỳ theo sở thích của tác giả cũng thường sử dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh, liên tưởng làm cho tư tưởng được thể hiện một cách mềm mại, gợi cảm hoặc hóm hỉnh. Văn nghị luận cũng có thể mang yếu tố trữ tình, tác giả nghị luận trực tiếp bộc bạch nỗi lòng của mình bằng những lời tâm huyết, gan ruột. Vì vậy, khi hướng dẫn HS đọc văn nghị luận, cần phải giúp HS cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của lời văn.
Chương trình NV 2006 cũng như CT 2018 đặt ra yêu cầu và mức độ cần đạt về đọc hiểu VB nghị luận đối với HS THPT tập trung vào một số điểm sau đây:
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Và Yêu Cầu Về Năng Lực Dạy Học Đọc Hiểu Của Gv Ngữ Văn Ở Trường Trung Học Phổ Thông
- Chuẩn Nghề Nghiệp Và Yêu Cầu Về Năng Lực Dạy Học Của Giáo Viên Ngữ Văn
- Mô hình hoạt động của giáo viên trong dạy đọc hiểu văn bản ở trung học phổ thông - 12
- Bảng Hệ Thống Các Hoạt Động Của Gv Trong Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực.
- Tổ Chức Hoạt Động Cho Hs Đọc Hiểu Trên Lớp (Đhtl)
- Hđ4. Tổng Kết Và Hướng Dẫn Hs Cách Đọc Hiểu Thể Loại Vb Đã Học
Xem toàn bộ 261 trang tài liệu này.
– Nhận biết và phân tích được nội dung của luận đề, các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, độc đáo trong văn bản.
– Phân tích được mối quan hệ giữa các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng, quan hệ giữa chúng với luận đề của văn bản; nhận biết và giải thích được sự phù hợp giữa nội dung nghị luận với nhan đề của văn bản.
– Xác định được nội dung và ý nghĩa của văn bản. Nhận biết được mục đích, thái độ và tình cảm của người viết.
– Nhận biết và đánh giá được các lí lẽ và bằng chứng mà người viết sử dụng để bảo vệ quan điểm trong bài viết.
– Nhận biết và phân tích được vai trò của các yếu tố thuyết minh hoặc miêu tả, tự sự trong văn bản nghị luận
– Liên hệ được nội dung văn bản với một tư tưởng, quan niệm, xu thế (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học) của giai đoạn mà văn bản ra đời để hiểu sâu hơn.
– Thể hiện được quan điểm đồng ý hay không đồng ý với nội dung chính của văn bản và giải thích lí do.
Để đáp ứng được yêu cầu ĐHVB nghị luận đối với HS THPT như đã trình bày, HS không chỉ có hiểu biết phong phú về thể loại VB nghị luận (nghị luận chính trị – xã hội, nghị luận văn học, sự kết hợp các yếu tố tự sự, biểu cảm, thuyết minh trong VB nghị luận), mà còn phải có sự hiểu biết về cách tổ chức VB nghị luận từ luận điểm, lý lẽ, bằng chứng mà người viết thực hiện để đạt mục đích của mình. Một yêu cầu nữa của việc ĐHVB nghị luận được chú trọng rèn luyện NL ĐHVB cho HS THPT là sự mở rộng vốn hiểu biết của HS. Bởi vì vấn đề cần bàn bạc, thảo luận trong VB nghị luận liên quan đến đời sống lịch sử, xã hội, văn hóa, học thuật,… Người tiếp nhận VB cần có sự hiểu biết rộng để nhận thức được vấn đề ở các góc độ. Mặt khác, người đọc là chủ thể tiếp nhận tích cực cần phải có quan điểm riêng trước vấn đề được trao đổi, tranh luận trong VB. Vì vậy, cùng với việc rèn luyện kĩ năng theo yêu cầu ĐH trong CT NV do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, GV cần khuyến khích HS đọc thêm. Cũng hiểu như vậy, trong việc dạy ĐHVB nghị luận, sự tích hợp để có vốn hiểu biết
rộng, đủ sức chiếm lĩnh kiến thức được thể hiện trong VB nghị luận ở cấp THPT đòi hỏi GV và HS phải đọc, trao đổi, tranh luận trước những vấn đề xã hội nhân sinh hiện nay là rất cần thiết. Làm được như vậy, giờ học văn nghị luận sẽ là giờ “học để biết, học để làm, học để chung sống”.
Đặc điểm nổi bật của VB nghị luận là lập luận. Sự chặt chẽ của VB nghị luận thể hiện qua việc tổ chức các luận điểm, trình bày lý lẽ, bằng chứng tạo nên tính chỉnh thể của VB. Người viết VB nghị luận để thuyết phục người đọc theo quan điểm của mình, phải biết huy động sự hiểu biết vấn đề của đối tượng mà mình bàn bạc từ những biểu hiện thực tế với bằng chứng xác thực; rồi lại phải dùng lý lẽ thuyết minh, làm sáng tỏ vấn đề theo ý mình muốn nói. Có bằng chứng, lý lẽ chưa đủ, người viết phải tổ chức sắp xếp các ý mình trình bày thành luận điểm. Luận điểm là những “cột trụ” vững chắc để “neo giữ” ý tưởng của người viết trước sự “bắt bẻ” của ý kiến người phản biện, tranh luận. Vì vậy, GV hướng dẫn HS đọc VB nghị luận, “cánh cửa” trước tiên cần được “mở” là “mạch lập luận” của VB. Mạch lập luận của VB nghị luận ở “bề nổi” là luận điểm của bài viết, căn cứ của lý lẽ, bằng chứng tác giả sử dụng. Song song với việc phát hiện sự tổ chức các yếu tố của “mạch lập luận” VB nghị luận đề thể hiện nội dung, cần chú ý các phương tiện giao tiếp được sử dụng trong VB như: các biện pháp tu từ, sự kết hợp các yếu tố tự sự, biểu cảm, thuyết minh,… để tạo nên VB nghị luận có tính thuyết phục người đọc.
VB nghị luận khác VB văn học. Trong VB văn học, chủ đề tư tưởng của tác phẩm được thể hiện qua hình tượng với ngôn từ chứa đựng cảm xúc, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu,… Do đó, HS tiếp nhận tác phẩm văn học nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ. Trong khi đó, VB nghị luận dựa trên lập luận, lý lẽ, bằng chứng để thuyết phục người đọc. Vì vậy để hiểu được mục đích của người viết VB, GV hướng dẫn HS xem xét luận điểm của bài viết, căn cứ của lý lẽ, bằng chứng tác giả sử dụng để bảo vệ hoặc bác bỏ vấn đề (hay khía cạnh của vấn đề) có hợp lý hay không?
Mặt khác, do vấn đề đặt ra trong VB nghị luận là vấn đề cần trao đổi, bàn bạc cho sáng tỏ, người viết VB chỉ đưa ra cách hiểu trên quan điểm của người viết. Do vậy, trong việc tiếp nhận VB nghị luận, HS cần được hướng dẫn để phân tích, phê phán chỉ ra điểm đúng, sai trong lập luận, quan đểm của tác giả. Từ đó, HS có cơ sở để
tranh luận để phát triển tư duy phê phán, đề xuất cách hiểu VB theo cách suy nghĩ độc lập của HS.
Tóm lại, trong dạy học ĐHVB nghị luận, xuất phát từ đặc điểm của VB nghị luận ở cấp học THPT, cái khó của việc dạy ĐHVB nghị luận ở nhà trường phổ thông là VB nghị luận là loại VB “khô khan”, HS không mấy hứng thú so với VB văn học và VB thông tin. Do vậy, cùng với việc rèn luyện NL ĐHVB nghị luận trong giờ lên lớp, GV cần chú trọng mở rộng và nâng cao sự hiểu biết của HS từ việc đọc thêm, tích lũy kiến thức từ các môn học và tham gia các HĐ thực tế để HS có thể tiếp nhận VB và tạo lập VB đạt chuẩn yêu cầu cần đạt về NLĐHVB nghị luận.
Tiểu kết chương 1
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới CT dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển NL, cần thiết phải thay đổi cách dạy và cách học trong nhà trường. Trong khuôn khổ của đề tài LA, nội dung chương 1 tập trung làm rò cơ sở lý luận và thực tiễn của MHHĐ của GV trong dạy học ĐHVB ở THPT. Theo đó, MHHĐ của GV dạy ĐHVB được xây dựng dựa trên căn cứ lý luận và thực tiễn sau đây:
1– Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập đặt ra yêu cầu đổi mới đối với nền giáo dục Việt Nam: xây dựng CT giáo dục theo định hướng phát triển NL, trong đó có môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, là môn học công cụ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển NL cho HS – nguồn nhân lực dồi dào của đất nước.
2– LA tập trung trình bày: mục tiêu dạy học ĐHVB theo định hướng phát triển NL là phát triển NLĐHVB cho HS. Dạy học ĐHVB đáp ứng yêu cầu này góp phần tạo nền tảng cho công việc dạy học và giáo dục trong nhà trường theo định hướng phát triển NL. LA đã vận dụng lí luận dạy học hiện đại, dựa vào các yêu cầu (chuẩn) cần đạt của CT 2006, tham khảo định hướng CT 2018 và vận dụng một số lí thuyết như lí thuyết dạy học dựa trên NL, lí thuyết hành vi, lí thuyết kiến tạo để làm rò các vấn đề có liên quan. LA cũng xác lập một số khái niệm quan trọng liên quan đến vấn đề cần giải quyết như khái niệm năng lực; đọc hiểu văn bản; hoạt động dạy học ; năng lực đọc hiểu văn bản.
Chương 1 của LA cũng đã trình bày những điểm căn bản trong mục tiêu dạy học ĐHVB ở THPT với bốn điểm; 1/HS THPT có hiểu biết và có kĩ năng làm việc với nhiều
loại VB; 2/ Chú trọng rèn luyện bốn kĩ năng: đọc, viết, nói và nghe (chủ yếu thông qua các HĐ trải nghiệm và thực hành ĐHVB); 3/ HS biết cách tạo lập nghĩa cho VB để chuyển hóa thông tin từ VB thành kiến thức, vốn liếng tri thức của người học; 4/ Khám phá niềm vui đọc văn chương giúp HS xã hội hóa trong nhận thức, trong hành động, trong mỹ cảm để hình thành và phát triển NL giao tiếp cho HS.
3– Để có cái nhìn thực tế về HĐ của GV trong dạy học ĐHVB, làm cơ sở cho việc triển khai nghiên cứu HĐ của GV trong dạy học ĐHVB ở THPT theo CT định hướng phát triển NL, cần thiết phải đề cập đến thực trạng dạy học ĐHVB hiện nay ở cấp học này. Hai phương diện được LA xem xét là CT, SGK Ngữ văn hiện hành và HĐ dạy và học của GV và HS THPT.
Khảo sát CT và SGK (lớp 11) cho thấy ở quy định chuẩn cần đạt về NLĐHVB cho HS chưa có sự phân chia mức độ đọc hiểu theo yêu cầu ĐHVB (như phân tích, đánh giá, liên hệ, so sánh,…) phù hợp đối với trình độ ĐHVB của HS THPT.
Về HĐ dạy học của GV, qua xem xét GA của GV một số trường THPT, GA chưa có mẫu thống nhất, cách triển khai bài dạy trình bày trong GA vẫn nặng về kiểu dạy phân tích tác phẩm văn học; hình thức trình bày GA chưa thể hiện định hướng phát triển NLĐHVB cho HS. Theo kết quả thăm dò bằng bảng hỏi về tình hình dạy học ĐHVB ở một số trường THPT, HS cần sự hướng dẫn của GV để có thể tự đọc VB ở nhà và cần được hướng dẫn ĐH trên lớp, tăng cường tương tác trong HĐ giữa thầy và trò, giữa các nhóm và cá nhân HS; tăng cường thực hành, vận dụng.
Thực trạng dạy học ĐHVB, cho thấy việc dạy học theo định hướng phát triển NL cho HS ở THPT hiện nay còn nhiều điểm bất cập. Vì vậy, xây dựng các HĐ cho GV trong dạy ĐHVB theo yêu cầu đổi mới CT giáo dục là vô cùng cấp thiết. Các HĐ này cần phải thể hiện nhất quán từ CT, tài liệu hướng dẫn giảng dạy đến GA và phương pháp dạy học.
Việc đổi mới HĐ của GV trong dạy học ĐH cần thiết phải đặt ra yêu cầu về chuẩn nghề nghiệp và NL của GV. Trên cơ sở đặc thù của HĐ dạy học (được xác định trong khi trình bày khái niệm hoạt động dạy học), người dạy phải có trình độ chuyên môn và trình độ nghiệp vụ đáp ứng chuẩn nghề nghiệp. Trong HĐ dạy học ĐHVB, bốn yêu cầu về NL của GV trong dạy học ĐHVB ở THPT được trình bày là: GV là
chuyên gia về ĐHVB; GV phải có NL thiết kế và phát triển hình thức, nội dung dạy học ĐH phù hợp với đối tượng HS và môi trường dạy học; có NL định hướng, tổ chức HĐ cho HS trong dạy học ĐHVB và có NL đánh giá mức độ đạt được về ĐH của HS.
Điểm 4 của chương trình bày quan niệm về MHHĐ và yêu cầu xây dựng MHHĐ của GV trong dạy học ĐHVB theo định hướng phát triển NL cho HS THPT làm cơ sở để triển khai MHHĐ sẽ trình bày cụ thể ở chương 2.
Phần cuối của chương trình bày vấn đề dạy ĐH theo thể loại và kiểu VB. MHHĐ phải đáp ứng 2 yêu cầu: thứ nhất, ứng với từng loại (thể) VB, GV cần chú ý những điểm nào phù hợp với đặc trưng của từng loại (thể) VB; thứ hai:trong HĐ dạy ĐHVB theo loại (thể) phải tuân thủ chuẩn Yêu cầu cần đạt đối với HS THPT theo quy định của CT giáo dục phổ thông môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo (CT NV 2006 có tham khảo CTNV 2018).
Chương 2
MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA GV TRONG DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Ở THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
2.1. Khái quát quá trình tổ chức hoạt động của GV trong dạy học đọc hiểu văn bản ở THPT theo định hướng phát triển NL
Theo định hướng dạy học phát triển NL, mục tiêu dạy học thể hiện thông qua các NL được hình thành cho HS phù hợp với từng môn học. Như vậy mục tiêu môn học đòi hỏi GV phải lựa chọn, cân nhắc từ tổ chức, thiết kế CT, bài dạy cụ thể đến những HĐ cụ thể của GV và HS. HĐ của GV trong dạy học ĐHVB ở THPT phải đảm bảo yêu cầu sau đây:
– GV với vai trò là người hướng dẫn, tổ chức HĐ và kiểm tra, đánh giá.
– HĐ của GV trong dạy ĐHVB phải đảm bảo HS được HĐ, được đọc VB trên tinh thần đọc có mục đích, có phương pháp và tự bản thân HS hiểu và vận dụng.
– HĐ của GV không thể xây dựng cứng nhắc dựa vào tiến trình lên lớp như trước đây: 1. Ổn định tổ chức, 2. Kiểm tra bài cũ, 3. Dạy bài mới: phân tích VB, 4. Củng cố, dặn dò,…mà cần linh hoạt, nhưng phải bảo đảm các HĐ cốt lòi.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng MHHĐ của GV trong dạy ĐHVB ở THPT mà LA đã trình bày ở chương 1, trong chương 2 LA tập trung trình bày MHHĐ của GV trong dạy ĐHVB. Thực chất đó là những công việc cụ thể và cốt yếu nhất làm thành cái “khung” HĐ trong dạy ĐHVB mà mỗi GV khi dạy ĐHVB không thể bỏ qua hay giản lược. Như đã giới thuyết ở phần đầu, HĐ dạy học ĐH ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ quá trình tổ chức dạy học ĐH. Trong mục này, chúng tôi xin giới hạn tập trung trình bày các HĐ và các việc liên quan đến GV. Có thể khái quát quá trình này thành 3 cấp độ: các bước, các hoạt động và các việc.
– Bước: tương đương với giai đoạn, như là một giai đoạn, gồm các bước: i) GV chuẩn bị bài dạy ĐH (trước khi dạy bài ĐH trên lớp); ii) GV tổ chức HĐ cho HS ĐH VB trên lớp; iii) GV hướng dẫn HS thực hành, vận dụng (củng cố kết quả đọc); iv) GV tiến hành HĐ kiểm tra – đánh giá.
– Hoạt động: mỗi bước có các HĐ khác nhau (để hình dung cụ thể các HĐ trong từng bước (giai đoạn của quá trình HĐ dạy học ĐHVB). Tùy theo nội dung từng HĐ, có HĐ chúng tôi phân chia thành bước nhỏ với tên gọi “bước 1, bước 2…” theo thứ tự tiến hành HĐ đó. Sau đây là các HĐ trong từng bước:
+ Chuẩn bị bài dạy đọc hiểu (CBDĐ) gồm các HĐ: a) Xác định mục tiêu, yêu cầu của bài học; b) Nghiên cứu VB được chọn trong bài dạy; c) Hướng dẫn HS tự đọc VB và chuẩn bị bài;
.....