Quản Lý Bồi Dưỡng Năng Lực Dạy Học Cho Giáo Viên Trung Học Cơ Sở Đáp Ứng Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

trình quản lý thì yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn với vai trò vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để tạo điều kiện cho chủ thể quản lý thực hiện các chức năng quản lý và đưa ra được các quyết định quản lý. Mối quan hệ giữa các chức năng của quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1 2 Quan hệ các chức năng quản lý 1 2 1 2 Quản lý giáo dục Quản lí 1

Sơ đồ 1.2: Quan hệ các chức năng quản lý


1.2.1.2. Quản lý giáo dục

* Quản lí giáo dục cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên hiểu theo cách tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà giáo dục cho mọi người.

Quản lí giáo dục được tiếp cận dưới 2 góc độ vĩ mô và vi mô:

Ở góc độ vĩ mô, chủ thể quản lý là hệ thống các cơ quan quản lí giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, vì vậy quản lí giáo dục được hiểu là "Quản lí là những tác động có hệ thống, có mục đích, hợp quy luật của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục, nhằm đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành, phát triển thực hiện mục tiêu của nền giáo dục" [54, tr.22].

Ở góc độ vi mô, chủ thể quản lí giáo dục là chủ thể quản lí nhà trường (hiệu trưởng, giám đốc cơ sở giáo dục) đối tượng quản lí là các quá trình dạy và học, quá trình giáo dục và các thành tố tham gia vào quá trình đó. Khái niệm được tiếp cận ở góc độ vi mô như sau: "Quản lí nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí nhà trường giúp cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu, tính chất của

nhà trường Việt Nam đó là hình thành và phát triển nhân cách người học theo yêu cầu xã hội" [54, tr.22, 23].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục theo Điều 99 Luật giáo dục Việt Nam năm 2005, (sửa đổi bổ sung năm 2009), bao gồm 12 nội dung sau đây:

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục.

- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác.

- Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng.

- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục.

- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục.

- Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục.

- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ QLGD.

- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục.

- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục.

- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục.

- Quy định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục.

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục [49, tr.72-74].

Từ những khái niệm trên, tác giả đề tài chủ yếu tiếp cận nghiên cứu theo hướng quản lí về giáo dục ở góc độ vi mô đó là quản lí nhà trường của Hiệu trưởng, quản lí bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên là một trong những nội dung thuộc quản lí nhà trường của người Hiệu trưởng.

1.2.2. Năng lực, năng lực dạy học

1.2.2.1. Năng lực

"Năng lực" theo từ điển tiếng Việt là khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay "năng lực" là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một công việc nào đó.

Thao quan điểm của tâm lý học Macxit, năng lực của con người luôn gắn với hoạt động của chính họ. Nội dung và tính chất của hoạt động được quy định bởi nội dung và tính chất của đối tượng của nó. Tùy thuộc vào nội dung và tính chất của đối tượng hoạt động đòi hỏi ở chủ thể nhưỡng yêu cầu cần xác định. Nói một cách khác thì mỗi hoạt động khác nhau, với tính chất và mức độ khác nhau sẽ đòi hỏi ở cá nhân những thuộc tính tâm lý nhất định phù hợp với nó.

Theo Queébec - Ministère de l'Education (2004) cho rằng: “Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và sự đam mê để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống” [5].

Theo tác giả Nguyễn Công Khanh “Năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống. Năng lực là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng,... mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong những điều kiện, hoàn cảnh thay đổi” [42].

Trong “Chương trình giáo dục phổ thông 2018”, năng lực được định nghĩa và chia làm hai loại chính như sau:

“- Năng lực: là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

- Năng lực cốt lõi: là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả.

- Năng lực đặc biệt: là những năng khiếu về trí tuệ, văn nghệ, thể thao, kỹ năng sống… nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người” [11].

Như vậy, khi nói đến năng lực cần phải hiểu năng lực không phải là một thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó mà là sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả mong muốn. Do đó có thể định nghĩa như sau: Năng lực là tổng hợp các thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho các hoạt động đạt kết quả cao.

Theo chúng tôi, năng lực là sự kết hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ và khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ của cá nhân để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể có hiệu quả trong một vai trò, vị trí nhất định.

1.2.2.2. Năng lực dạy học

Năng lực dạy học là khả năng thực hiện hoạt động dạy học dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, các phẩm chất cá nhân để triển khai các khâu của quá trình dạy học nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ dạy học đề ra trong bối cảnh thực. Năng lực dạy học gồm:

i) Năng lực phát triển chương trình dạy học.

ii) Năng lực thiết kế và tổ chức bài học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

iii) Năng lực ứng dụng CNTT trong thiết kế và tổ chức dạy học.

iv) Năng lực lựa chọn, vận dụng, phối hợp các PP, hình thức tổ chức trong dạy học để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.

v) Năng lực sử dụng thiết bị và các phương tiện trong dạy học.

vi) Năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh trong dạy học.

vi) Năng lực kiểm tra, đánh giá trong dạy học.

Năng lực dạy học là những thuộc tính tâm lý mà nhờ đó người giáo viên thực hiện tốt hoạt động dạy học. Để có thể thực hiện tốt hoạt động dạy học, người giáo viên phải có vốn kiến thức cơ bản về môn học, về quá trình dạy học, hiểu biết về người học, có năng lực tổ chức quá trình dạy học, năng lực sử dụng các công nghệ, kỹ thuật dạy học [51, tr.256].

Theo tác giả Nguyễn Đức Chính: “Năng lực dạy học là tổ hợp các phẩm chất của giáo viên bao gồm tri thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của giáo viên trong quá trình dạy học được thể hiện thành công dưới dạng các hoạt động trong quá trình dạy học như quá trình chuẩn bị dạy học, lên lớp, kết quả dạy học..." [20, tr.2].

Như trên đã phân tích, năng lực dạy học của giáo viên là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của người giáo viên và các tri thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp của giáo viên trong quá trình dạy học đáp ứng những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra giúp giáo viên dạy học học sinh có hiệu quả.

Theo công trình nghiên cứu có tên là “Năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên và ảnh hưởng của nó đối với thành tích học tập của học sinh” của Ray jutin U.R.Barnuevo, Kenjib. Hasega Wa, Edwardhugo 2011): Năng lực dạy học như là tổ hợp của 4 thành tố bao gồm các thành tố về kiến thức chuyên môn, kỹ năng giảng dạy, kỹ năng quản lý lớp và đánh giá học sinh.

Kiến thức chuyên môn đề cập đến sự thành thạo các kiến thức mà giáo viên giảng dạy trong lớp học.

Kỹ năng giảng dạy đề cập đến sự tinh thông của giáo viên trong lĩnh vực môn học.

Kỹ năng Quản lý Lớp học đề cập đến năng lực của giáo viên để kiểm soát được bầu không khí lớp học và hành vi của học sinh.

Kỹ năng đánh giá đề cập đến khả năng của giáo viên để thực hiện nhiệm vụ có mục đích các công cụ đánh giá để đánh giá tiến bộ trí tuệ của học sinh.

Qua các định nghĩa trên tác giả tập trung nghiên cứu tiếp cận theo định nghĩa công trình nghiên cứu của Ray jutin U.R.Barnuevo, Kenjib. Hasega Wa, Edward hugo 2011.

1.2.3. Bồi dưỡng năng lực dạy học

1.2.3.1. Bồi dưỡng năng lực

Theo tác giả Nguyễn Minh Đường, bồi dưỡng năng lực có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức và kĩ năng còn thiếu đã lạc hậu trong cấp học, bậc học và thường được xác nhận bằng chứng chỉ.

Xét về nghĩa tinh thần, bồi dưỡng năng lực là làm tăng thêm về năng lực phẩm chất. Xét về kiến thức nghiệp vụ, bồi dưỡng năng lực là làm cho tốt hơn, giỏi hơn. "Bồi dưỡng năng lực là rèn luyện thêm cho những người vốn có khả năng trở

thành những người giỏi hơn (bồi là vun thêm)".

Bồi dưỡng năng lực theo nghĩa rộng là quá trình đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Theo nghĩa hẹp là trang bị kiến thức, kĩ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: Bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng năng lực dạy học.

Công tác bồi dưỡng năng lực được thực hiện trên nền tảng các loại trình độ đã được đào tạo cơ bản từ trước. Hoạt động bồi dưỡng năng lực là việc làm thường xuyên, liên tục cho mỗi GV, cấp học, ngành học, không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ để thích ứng với đòi hỏi của nền kinh tế xã hội. Nội dung bồi dưỡng năng lực được triển khai ở các mức độ khác nhau, phù hợp cho từng đối tượng cụ thể. Bồi dưỡng năng lực với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.

Như vậy, về mặt quản lý có thể hiểu bồi dưỡng năng lực thực chất là quá trình bổ sung thêm những tri thức, cập nhật thêm những cái mới để làm tăng thêm vốn hiểu biết, kỹ năng nghiệp vụ từ đó nâng cao hiệu quả lao động.

Từ những khái niệm trên có thể nói: Chủ thể hoạt động tự bồi dưỡng (khách thể hoạt động bồi dưỡng) là một người lao động đã được đào tạo và có một một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định.

1.2.3.2. Bồi dưỡng năng lực dạy học

Bồi dưỡng năng lực dạy học thực chất là quá trình cập nhật bổ sung kiến thức, kỹ năng để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn của người giáo viên thông qua được tập huấn hoặc tự học (bồi dưỡng và tự bồi dưỡng). Mục đích bồi dưỡng năng lực dạy học là nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để người giáo viên có cơ hội củng cố mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học.

1.2.4. Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới

Khái niệm: Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THCS đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới là việc các nhà quản lý giáo dục vận dụng các kiến thức về khoa học quản lý và đặc điểm của giáo dục THCS để tổ chức thực hiện quá trình quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THCS trước những yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra.

Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên là một trong những hoạt động của quản lý giáo dục, là quá trình tác động có ý thức của chủ thể quản lý giáo dục tới khách thể quản lý (tập thể giáo viên, mỗi giáo viên) tạo cơ hội cho giáo viên tham gia các hoạt động dạy học, giáo dục, học tập trong và ngoài nhà trường nhằm cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm nghề nghiệp nhằm nâng cao năng lực dạy học đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới nói riêng.

Bồi dưỡng về năng lực là yêu cầu thường xuyên, liên tục đối với nghề dạy học. Nó có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng giảng dạy của nhà trường và với bản thân GV. Để công tác bồi dưỡng năng lực có hiệu quả, Nhà quản lý cần đánh giá đúng tình hình thực trạng về năng lực đội ngũ giáo viên, GV xác định yêu cầu bồi dưỡng năng lực của bản thân về nội dung, mức độ cần đạt. Trên cơ sở đó, Nhà quản lý xây dựng kế hoạch bồi dưỡng của trường về nội dung, thời gian, đối tượng.

Mục tiêu quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học là nhằm góp phần nâng cao năng lực sư phạm, năng lực giáo dục của GV, đồng thời chuẩn hóa trình độ của đội ngũ nhà giáo, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.3. Chương trình giáo dục phổ thông mới và những yêu cầu đặt ra cho quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở

1.3.1. Chương trình giáo dục phổ thông mới

Chương trình giáo dục phổ thông là văn bản thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, quy định các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, làm căn cứ quản lí chất lượng giáo dục phổ thông; đồng thời là cam kết của Nhà nước nhằm bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục phổ thông.

Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.

Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.

Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học.

Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng theo hướng mở, cụ thể là:

- Chương trình bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương, nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của nhà trường, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.

- Chương trình chỉ quy định những nguyên tắc, định hướng chung về yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và việc đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá chi tiết, để tạo điều kiện cho tác giả sách giáo khoa và giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện chương trình.

- Chương trình bảo đảm tính ổn định và khả năng phát triển trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tiến bộ khoa học - công nghệ và yêu cầu của thực tế.

Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.

Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

1.3.2. Những yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra đối với bồi dưỡng năng lực dạy học và quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở

1.3.2.1. Những yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra cho bồi dưỡng năng lực dạy học giáo viên THCS

Để thực hiện có hiệu quả chương trình GDPT mới yêu cầu đội ngũ giáo viên THCS nói riêng phải tự đổi mới mình để thích nghi với đổi mới toàn diện của ngành. Tác giả Nguyễn Phú Tuấn, Viện Nghiên cứu Hợp tác Phát triển giáo dục cho rằng: “Trong thời đại hiện nay, trước yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học theo định

Xem tất cả 151 trang.

Ngày đăng: 18/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí