Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 7


Hai là, các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về du lịch gồm có: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trực tiếp là tổng cục Du lịch (ở cấp trung ương) và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sau đó là các Phòng Du lịch (ở cấp địa phương). Các cơ quan này có chức năng quản lý nhà nước về các vấn đề thuộc chuyên môn của ngành Du lịch.

Ba là, các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan về du lịch gồm có: Bộ ngoại giao, Bộ công an, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương... (ở cấp Trung ương) và các Sở tương ứng ở cấp địa phương. Các cơ quan này được thành lập để quản lý các vấn đề thuộc ngành tương ứng, nhưng trong hoạt động của ngành du lịch có những vấn đề thuộc sự quản lý ngạch dọc của các cơ quan này.

Trong hoạt động của KTDL, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch có vai trò rất quan trọng, có thể kể đến một số vai trò cơ bản sau:

- Xây dựng, chiến lược, quy hoạch, phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh/thành phố.

Chiến lược phát triển du lịch là một bộ phận cấu thành trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó quy định mục tiêu lâu dài, cơ bản và nhiệm vụ chủ yếu về sự phát triển du lịch, những con đường và cách thức để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó, phương hướng chung để phát triển du lịch trong một thời kỳ dài. Chiến lược phát triển du lịch là công cụ đưa ra một tầm nhìn dài hạn về hoạt động của du lịch trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương về du lịch có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, phát triển du lịch của địa phương trong từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện nguồn lực và tiềm năng, lợi thế về du lịch. Theo đó, nội dung quy hoạch phải xác định và thể hiện được tầm nhìn dài hạn, đánh giá chính xác những lợi thế so sánh để khai thác tối đa nguồn lực cho phát triển KTDL của địa phương trong bối cảnh HNQT.


- Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch.

Lực lượng lao động tham gia vào quá trình phát triển KTDL bao gồm nhân lực trực tiếp và nhân lực gián tiếp. Nhân lực trực tiếp là những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các đơn vị sự nghiệp du lịch và các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch. Nhân lực gián tiếp là bộ phận nhân lực làm việc trong các ngành, các quá trình liên quan đến hoạt động du lịch như: văn hóa, hải quan, giao thông, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ công cộng, môi trường, bưu chính viễn thông và cộng đồng dân cư…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Phát triển KTDL đòi hỏi nguồn nhân lực lớn với nhiều loại trình độ do tính chất đặc điểm của ngành và đối tượng phục vụ là khách hàng với nhu cầu rất đa dạng. Trong hoạt động của KTDL, phần lớn lao động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên chất lượng dịch vụ được cung cấp cho khách hàng không chỉ phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng tay nghề của người lao động mà còn phụ thuộc vào thái độ làm việc của họ, cả hai yếu tố này đều quyết định mức độ thỏa mãn của khách hàng. Vì vậy, để cung cấp dịch vụ du lịch đạt tiêu chuẩn thì kỹ năng và tố chất của nhân viên phục vụ phải không ngừng được nâng cao và chuẩn hoá một cách chính quy mang tầm khu vực và quốc tế. Để đạt được yêu cầu đó, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho nguồn nhân lực du lịch.

- Tổ chức, thực hiện việc liên kết, hợp tác về phát triển KTDL.

Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 7

Trong xu thế phát triển toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO, vấn đề "Liên kết, Hợp tác và Hội nhập" có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, của mỗi vùng và mỗi địa phương. Điều này đòi hỏi cần có sự quan tâm lớn của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch.

- Tổ chức xúc tiến, quảng bá về du lịch.


Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được coi là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển KTDL của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Xúc tiến, quảng bá du lịch góp phần chuyển biến, nâng cao nhận thức của các ngành, địa phương và toàn xã hội về du lịch, đưa phát triển KTDL thành sự nghiệp của toàn dân. Mặt khác, hoạt động xúc tiến, quảng bá nhằm nâng cao hình ảnh của các địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung trong khu vực và trên thế giới để ngày càng thu hút được nhiều du khách. Có rất nhiều yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xúc tiến, quảng bá về du lịch, một trong những yếu tố quan trọng không thể bỏ qua đó là chính sách của Nhà nước về phát triển du lịch. Chính sách này được thể hiện qua bằng hệ thống luật, các văn bản dưới luật có liên quan.

* Các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch

Đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch là các pháp nhân cung ứng một hoặc nhiều dịch vụ/hàng hóa cho du khách trong chuyến hành trình của họ; đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch bao gồm nhiều thành phần, với những chức năng, ý nghĩa nhất định trong việc tạo ra và thực hiện các sản phẩm du lịch, có thể khái quát thành 3 nhóm: các doanh nghiệp kinh doanh du lịch (kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành, kinh doanh ăn uống, vui chơi, giải trí…); các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề khác nhưng có cung ứng sản phẩm phục vụ khách du lịch (các công ty vận chuyển đường hàng không, đường sắt, đường bộ, đường thủy; các doanh nghiệp thương mại; các ngân hàng; công ty bưu chính - viễn thông...); các nhà cung ứng dịch vụ công (cơ quan ngoại giao, hải quan, công an…).

- Kinh doanh lữ hành là một trong những hoạt động hết sức quan trọng, có vai trò nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hoặc gián tiếp qua các trung gian hay văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. Nói cách khác, hoạt động kinh doanh lữ hành là cầu nối


giữa cung và cầu du lịch, giữa các nhà sản xuất sản phẩm, dịch vụ du lịch với người tiêu dùng (khách du lịch).

- Kinh doanh lưu trú là thành phần đặc trưng nhất trong toàn bộ hệ thống cơ sở cung ứng dịch vụ du lịch, đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con người khi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ.

Tại Điều 62, Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 [48], Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Khách sạn, Làng du lịch, Biệt thự du lịch, Bãi cắm trại du lịch, Nhà nghỉ du lịch, Nhà nghỉ có phòng cho khách du lịch thuê, Các cơ sở lưu trú du lịch khác.

+ Khách sạn: là cơ sở cung ứng các dịch vụ về ăn, ngủ cho khách du lịch với mục địch thu lợi nhuận.

++ Khách sạn trung chuyển du lịch là các cơ sở kinh doanh nhỏ, là một mắt xích trong các sản phẩm du lịch trọn gói được chào bán cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Khách sạn trung chuyển thường nằm tại các vùng nông thôn và được xây dựng theo kiến trúc địa phương.

++ Khách sạn thông thường là các cơ sở kinh doanh trung bình. Đối tượng phục vụ là khách du lịch, thương nhân hay khách công vụ. Có khoảng từ 6 đến 60 phòng. Vị trí thường nằm ở các đô thị hoặc những nơi có nhiều danh lam thắng cảnh.

++ Khách sạn du lịch cao cấp là các cơ sở kinh doanh với quy mô lớn. Đối tượng phục vụ là các thương gia hay khách du lịch có mức thu nhập cao. Thường nằm ở các trung tâm đô thị hay các khu du lịch nổi tiếng. Các khách sạn du lịch cao cấp gồm nhiều loại như: khách sạn phục vụ các thương gia; khách du lịch quá cảnh, các khách sạn nghỉ ngơi (từ 3 đến 5 sao); các làng du lịch (từ 2 đến 3 sao) nhằm phục vụ các khách du lịch đến nghỉ trong thời gian ngắn.

+ Làng du lịch: là khu vực được quy hoạch, xây dựng gồm các biệt thự hoặc căn hộ đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt, giải trí, nghỉ dưỡng và các nhu cầu cần thiết khác của khách du lịch.


Đối tượng khách của làng du lịch phần đông là những người có khả năng thanh toán cao, đi theo đoàn hoặc cá nhân thông qua tổ chức theo giá trọn gói với mục đích nghỉ dưỡng, thư giãn và thường lưu trú dài ngày.

+ Biệt thự du lịch: là cơ sở lưu trú được xây dựng trong các khu du lịch, làng du lịch hoặc bãi cắm trại, được thiết kế và được xây dựng kiên cố, có buồng ngủ, phòng khách, bếp, gara ô tô, sân vườn phục vụ khách du lịch. Đối tượng khách lưu trú tại các biệt thự du lịch thường là khách đi theo gia đình.

+ Căn hộ du lịch: là diện tích được xây dựng khép kín trong một ngôi nhà, gồm buồng ngủ, phòng khách, bếp, phòng vệ sinh, chủ yếu phục vụ cho khách du lịch đi cùng gia đình. Căn hộ du lịch có thể là một căn hộ đơn lẻ nằm trong một ngôi nhà hoặc nhiều căn hộ được xây dựng độc lập thành khối phục vụ khách du lịch.

+ Bãi cắm trại du lịch: là khu vực được quy họach, xây dựng gắn với cảnh quan thiên nhiên, có kết cấu hạ tầng và dịch vụ cần thiết phục vụ khách du lịch. Bãi cắm du lịch thường phục vụ những khách thích tìm về với thiên nhiên, đi theo gia đình hay theo nhóm.

+ Nhà nghỉ du lịch: là công trình kiến trúc được xây dựng độc lập, có quy mô từ 9 buồng ngủ trở xuống, bảo đảm chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết, thường phục vụ khách du lịch có khả năng thanh toán trung bình.

+ Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê: là loại hình cơ sở lưu trú rất phổ biến và được khách du lịch ưa chuộng vì giá cả rẻ, không khí ấm cúng, khách cảm thấy tự do thoải mái như ở nhà. Loại hình này ngày càng phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới. Tiêu chuẩn về phòng và trang bị cũng giống như khách sạn. Khách có thể tự nấu ăn hoặc thuê chủ nhà.

+ Các cơ sở lưu trú khác: Motel, Camping, Bungalow, Nhà trọ thanh niên…

- Cơ sở ăn uống, vui chơi giả trí, thể thao, y tế và cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác có tác dụng đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ


nghỉ của khách du lịch. Nhìn chung, các công trình này được xây dựng chủ yếu phục vụ nhân dân địa phương, nhưng tại các điểm du lịch, chúng góp phần làm tăng tính đồng bộ của hệ thống dịch vụ du lịch.

* Khách du lịch

- Tại điểm 2, Điều 4, Luật Du lịch Việt Nam (2005), ban hành ngày 14/6/2005 quy định: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến [48]. Có thể hiểu, khách du lịch là những người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của họ để đến một nơi khác trong thời gian ít hơn 12 tháng liên tục với mục đích chính của chuyến đi là thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài việc học tập và các hoạt động để đem lại thu

nhập ở nơi đến.

Đối tượng khách du lịch vô cùng phong phú, thuộc từ mọi thành phần trong xã hội, mọi độ tuổi và đến từ mọi nơi trên thế giới.

Tại Điều 34, Luật Du lịch Việt Nam (2005) [48], khách du lịch được chia thành hai loại:

+ Khách du lịch quốc tế: là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.

+ Khách du lịch nội địa: là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam [48].

* Cộng đồng dân cư tại điểm du lịch

Cộng đồng dân cư tại điểm du lịch là tất cả những người đang cư trú thường xuyên tại những địa bàn có tài nguyên du lịch hoặc địa bàn không có tài nguyên du lịch nhưng có các hoạt động cung ứng sản phẩm phục vụ cho khách du lịch. Cộng đồng dân cư có vai trò tiếp nhận du khách, cung cấp, đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch cũng như quảng bá, giới thiệu văn hóa ở địa phương.


* Mối quan hệ giữa các chủ thể của kinh tế du lịch

Tham gia vào hoạt động KTDL gồm có bốn chủ thể cơ bản: khách du lịch, cộng đồng dân cư tại điểm du lịch, các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Các chủ thể có mối quan hệ đan xen, tương tác nhiều chiều và các mối quan hệ đó cùng có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của hoạt động KTDL.

Thứ nhất, mối quan hệ giữa khách du lịch với đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch. Đây cơ bản là mối quan hệ giữa cung và cầu. Nhưng với bản chất của quá trình mua và tiêu dùng sản phẩm du lịch là quá trình được phục vụ nên ngoài tính chất kinh tế thì mối quan hệ giữa khách du lịch và đơn vị cung ứng các sản phẩm du lịch còn mang tính chất văn hóa, xã hội, tâm lý... Trong nhiều trường hợp, chính yếu tố tính chất văn hóa, xã hội, tâm lý có tác động mạnh đến quan hệ cung - cầu, bởi nhà cung ứng sản phẩm du lịch nếu biết tạo ra các sản phẩm du lịch đầy bản sắc văn hóa, tổ chức hoạt động du lịch tạo tâm lý thoải mái … sẽ có tác dụng kích cầu và ngược lại.

Thứ hai, mối quan hệ giữa khách du lịch với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Khi ký kết hợp đồng mua sản phẩm du lịch, nghĩa là khách du lịch đã phải quan tâm và thực hiện đúng các quy định pháp luật của Nhà nước và quy định, hương ước của địa phương nơi có điểm du lịch. Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch các cấp, trước hết phải bảo đảm điều kiện an ninh an toàn cho du khách, có chính sách quản lý, đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch phải có đầy đủ biện pháp kiểm soát, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của du khách.

Thứ ba, mối quan hệ giữa khách du lịch với cộng đồng dân cư tại địa bàn du lịch. Đây là mối quan hệ chủ yếu mang tính văn hóa, xã hội, tâm lý. Khách du lịch và cộng đồng dân là những chủ thể mang tính chất xã hội và tâm lý giao tiếp khác nhau nên giao tiếp giữa họ là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa. Mối quan hệ này có tác dụng thu hút khách du lịch bởi đặc tính


mong muốn tìm hiểu, khám phá của con người. Ngoài ra, người dân ở các điểm du lịch cũng tham gia tích cực vào các hoạt động cung ứng một số sản phẩm du lịch (đồ lưu niệm, sản phẩm văn hóa, đặc sản địa phương…), cung ứng dịch vụ hướng dẫn tham quan, nơi di trú (homestay)...

Thứ tư, mối quan hệ giữa nhà cung ứng sản phẩm du lịch với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Đây vừa là mối quan hệ giữa cơ quan quản lý kinh tế với các đơn vị kinh doanh, vừa là mối quan hệ giữa cơ quan làm công tác quản lý hoạt động văn hóa, xã hội và các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch có tính chất văn hóa. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tạo ra “sân chơi” cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp là các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước cần có chính sách bảo tồn, tôn tạo, phát huy di sản, bản sắc văn hóa dân tộc… Điều này đặc biệt có ý nghĩa nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Ngược lại, các doanh nghiệp kinh doanh - đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch cần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thực hiện các quy định của địa phương nơi có điểm du lịch, xây dựng thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp để uy tín và chất lượng ngày càng được khẳng định trên thị trường.

Thứ năm, mối quan hệ giữa đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch với cộng đồng dân cư tại địa bàn du lịch. Đây là mối quan hệ vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã hội. Trong mối quan hệ này, cộng đồng dân cư ở địa bàn du lịch đóng góp về mặt nhân lực và một phần hàng hóa, dịch vụ với tính chất là nguyên liệu đầu vào cho các đơn vị kinh doanh du lịch. Còn các doanh nghiệp kinh doanh du lịch góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân nơi có điểm du lịch, thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ một phần sản phẩm địa phương. Ở không gian nơi mà cộng đồng dân cư sống đan xen với các tài nguyên du lịch thì hoạt động của các đơn vị kinh doanh du lịch sẽ có những tác động trực tiếp đến cộng đồng dân cư sở tại trong sự phối hợp, liên kết tạo

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 08/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí