nên giá trị lớn hơn cho sản phẩm du lịch, theo đó có tác động kích thích phát triển sản xuất, giao thương, phát triển văn hóa, xã hội. Theo chiều tác động trở lại, người dân địa phương với những hoạt động sản xuất và đời sống của mình có tác động giúp cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn hoặc kém đi tùy thuộc vào sức hấp dẫn văn hóa của cộng đồng dân cư đó và chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tại địa bàn du lịch.
Thứ sáu, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và cộng đồng dân cư tại địa bàn du lịch. Cơ quan quản lý nhà nước cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển các giá trị di sản, bản sắc văn hóa; tuyên truyền về lợi ích của việc phát triển du lịch, xây dựng cơ chế chính sách chia sẻ lợi ích để cùng phát triển từ hoạt động du lịch đối với các bên tham gia hoạt động du lịch, nhất là đối với người dân địa phương có điểm đến du lịch. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước cũng cần có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, giải quyết các hành vi tiêu cực của người dân tại điểm du lịch gây phiền hà cho khách, làm ảnh hưởng đến môi trường du lịch, phá hủy tài nguyên du lịch tự nhiên. Người dân ở địa phương có trách nhiệm bảo vệ giá trị của bản sắc văn hóa, thực hiện bảo vệ xã hội, môi trường, phối hợp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch.
2.1.2.2. Nhóm hạ tầng du lịch và tiềm năng về tài nguyên du lịch
* Hạ tầng du lịch.
Hạ tầng du lịch có vai trò đặc biệt trong việc phát triển KTDL, bao gồm những yếu tố:
- Mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải: là yếu tố hết sức quan trọng vì hoạt động du lịch luôn gắn với việc di chuyển con người. Giao thông vận tải phục vụ nhu cầu đi lại của du khách, giúp cho hoạt động du lịch được thuận tiện. Nhờ có mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng thì du lịch mới trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Giao thông thuận tiện góp phần giảm bớt thời gian đi lại và tăng thời gian nghỉ ngơi cho du khách.
- Thông tin liên lạc: là một bộ phận thiết yếu của hạ tầng du lịch, đảm nhiệm việc vận chuyển các tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời, góp phần thực hiện mối giao lưu giữa các vùng trong phạm vi cả nước và quốc tế. Trong đời sống hiện đại nói chung và trong hoạt động của KTDL nói riêng không thể thiếu được các phương tiện thông tin liên lạc.
- Các công trình cung cấp điện, nước: là yếu tố thiết yếu trong hoạt động KTDL. Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình để đến một địa điểm khác, nên ngoài nhu cầu về tham quan, đi lại họ còn có nhu cầu đảm bảo về cuộc sống bình thường như ăn, nghỉ… Do vậy, điện, nước là yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc nghỉ ngơi, giải trí của du khách.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Nghiên Cứu Ở Các Công Trình Đã Công Bố Và Những Vấn Đề Cần Tiếp Tục Được Nghiên Cứu
- Đặc Điểm Của Kinh Tế Du Lịch Ở Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Trong Hội Nhập Quốc Tế
- Kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong hội nhập quốc tế - 7
- Kinh Tế Du Lịch Góp Phần Thu Hút Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Cho Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Trong Vùng
- Nhạy Bén Trong Định Hướng, Xây Dựng Các Chính Sách Của Những Ngành Khác Có Tác Động Mạnh Mẽ Đến Du Lịch
- Tỷ Lệ Lao Động Qua Đào Tạo Của Cả Nước Và Các Vùng Kinh Tế Trọng Điểm
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
* Tiềm năng về nguồn tài nguyên du lịch.
Tiềm năng nguồn tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
- Tài nguyên tự nhiên bao gồm: địa hình, khí hậu, nguồn nước, hệ thống biển, sông ngòi, hệ động vật và thực vật…
- Tài nguyên du lịch nhân văn: là đối tượng và hiện tượng văn hóa lịch sử do con người sáng tạo ra trong đời sống. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm có: di tích lịch sử văn hoá, các bảo tàng, lễ hội, văn hóa ẩm thực… So với tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, giá trị giải trí là thứ yếu.
Những nguồn tài nguyên này là yếu tố tạo ra các cơ hội và điều kiện thị trường để thu hút khách du lịch. Quy mô nguồn tài nguyên du lịch càng lớn, chất lượng của chúng càng cao và có nhiều tính độc đáo thì càng có điều kiện để thu hút du khách, mở rộng thị trường cho hoạt động KTDL. Vì vậy, có thể khẳng định, tài nguyên du dịch là yếu tố quan trọng tác động đến quy mô, chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm du lịch.
2.1.2.3. Nhóm các yếu tố thuộc về sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động của KTDL. Sản phẩm du lịch tạo nên sự khác biệt trong phát triển KTDL, tạo nên thương hiệu và hình ảnh của mỗi điểm đến, mỗi địa phương, vùng, miền và mỗi quốc gia.
Tại điểm 10, Điều 4, Luật Du lịch Việt Nam (2005), sản phẩm du lịch được định nghĩa “là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” [48]. Các dịch vụ ở đây bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành, vận chuyển, vui chơi, giải trí, dịch vụ thông tin hướng dẫn và các dịch vụ khác liên quan.
Sản phẩm du lịch trước hết là một loại hàng hóa nên nó cũng cần có quá trình nghiên cứu, đầu tư, có người sản xuất, có người tiêu dùng. Sản phẩm du lịch là một loại hàng hóa đặc biệt, thường mang những đặc trưng văn hóa cao, thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng du khách. Đó có thể là một chương trình du lịch với thời gian và địa điểm khác nhau. Sản phẩm du lịch thể hiện trong các chương trình du lịch này chính là việc khai thác các tiềm năng, nguồn lực sẵn có trên một địa bàn hoặc được tạo ra khi biết kết hợp những tiềm năng, nguồn lực đó theo những cách thức riêng của từng cá nhân hay một doanh nghiệp nào đó. Đó có thể việc khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các địa phương vào hoạt động du lịch như: các loại hình nghệ thuật, dân ca, dân vũ, văn hóa ẩm thực hay các hình thức hoạt động thể thao, các hoạt động lễ hội truyền thống, trình diễn, diễn xướng dân gian… Những hoạt động như vậy giúp cho du khách trực tiếp cảm nhận và hưởng thụ, trải nghiệm văn hóa của địa phương. Sản phẩm du lịch còn là những dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ làm đẹp, các dịch vụ thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng… đem lại nhiều tiện lợi cho du khách.
Sản phẩm du lịch có thể là các sản phẩm vật chất được cung cấp cho du khách ở những nơi du khách dừng chân, nghỉ ngơi hay tham quan du lịch. Đó
có thể là các vật phẩm, đồ lưu niệm; các chủng loại hàng hóa với mẫu mã, chất liệu, phương pháp chế tác khác nhau đem đến nhiều công năng tiện ích cho người sử dụng.
Tóm lại, cũng như các ngành kinh tế khác, KTDL cũng là ngành sản xuất hội tụ đầy đủ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, do đặc thù sản phẩm và dịch vụ du lịch phức tạp hơn rất nhiều so với các loại hàng hóa thông thường khác (vì để tạo ra được một sản phẩm du lịch cần sự kết hợp tổng thể của nhiều ngành nghề cũng như sự liên kết giữa các địa phương, các khu vực…) nên phát triển KTDL cần có sự quy hoạch tổng thể và thích ứng với điều kiện của từng vùng, từng quốc gia.
2.1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm trong hội nhập quốc tế
Hiệu quả là phạm trù kinh tế - xã hội, là chỉ tiêu phản ánh trình độ của con người khi sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia trong các hoạt động để đạt được kết quả tốt nhất dựa trên mục đích của mình. Đây là một khái niệm rộng, có thể hiểu dưới các góc độ, phạm vi khác nhau như: hiệu quả kinh tế và xã hội, hiệu quả ngắn hạn và dài hạn, hiệu quả bộ phận và tổng thể, hiệu quả tương đối và tuyệt đối. Ở đây, luận án xem xét hoạt động của KTDL dưới phạm vi hiệu quả về kinh tế và xã hội.
2.1.3.1. Tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế
Phát triển KTDL phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định lâu dài của các chỉ tiêu về kinh tế. Với tiêu chí này cần đề cập đến những chỉ tiêu cơ bản sau:
- Chỉ tiêu về thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch (GDP du lịch)
GDP là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống tài khoản quốc gia, được sử dụng với mục đích nhằm đánh giá kết quả
tổng hợp hoạt động kinh tế, nghĩa là đánh giá khối lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tỉnh/thành phố và từng ngành kinh tế. Sự phát triển và gia tăng liên tục của chỉ tiêu GDP không chỉ đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt kinh tế, mà còn cho thấy vị trí của KTDL trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Thu nhập từ hoạt động của KTDL là một chỉ tiêu quan trọng đối với sự phát triển du lịch cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, là thước đo mức độ phát triển và sự thành công của ngành Du lịch và KTDL. Hoạt động du lịch mang ý nghĩa kinh tế và hướng tới mục tiêu quan trọng là thu nhập, lợi nhuận và đóng góp cho ngân sách nhà nước. Thu nhập du lịch bao gồm tất cả các khoản thu được do khách du lịch chi trả cho dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển khách, các dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác.
- Chỉ tiêu về khách du lịch
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của KTDL. Khi sử dụng chỉ tiêu khách du lịch cần tính đến các yếu tố: số lượng khách, thu nhập từ khách, số ngày lưu trú trung bình, khả năng thanh toán, mức độ hài lòng của khách… Để đánh giá hiệu quả của KTDL thì chỉ tiêu này phải tăng trưởng liên tục qua các năm.
2.1.3.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả xã hội - môi trường
Hiệu quả xã hội - môi trường của KTDL phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được trong lĩnh vực du lịch đến xã hội và môi trường. Có thể kể đến một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội - môi trường của KTDL sau:
- Chỉ tiêu về giải quyết việc làm
Bên cạnh hiệu quả về mặt kinh tế, hoạt động của KTDL còn phải tính đến hiệu quả xã hội, trong đó có hiệu quả tạo việc làm và thu nhập cho người dân. Du lịch với bản chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, KTDL phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho
lao động mà không cần phải đào tạo công phu. Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì KTDL là ngành tạo ra nhiều việc làm thứ hai, đứng sau nông nghiệp. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giải quyết việc làm của KTDL có thể được xây dựng dựa trên các yếu tố về số lượng, chất lượng của lao động.
Về số lượng lao động: phát triển KTDL phải đáp ứng được yêu cầu giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp ở vùng, địa phương, bằng con số cụ thể đã được đề ra theo từng năm.
Về chất lượng lao động: chất lượng lao động được đánh giá dựa trên các yếu tố như trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, trình độ văn hóa…
- Chỉ tiêu về tài nguyên - môi trường đảm bảo và văn hóa bền vững
Phát triển KTDL phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Cần khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường, đảm bảo cho việc đáp ứng được nhu cầu hiện tại và tương lai. Để thực hiện được mục tiêu này, ngành Du lịch phải có những hoạt động cụ thể để đóng góp vào công cuộc tôn tạo, bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường.
Chỉ tiêu về tài nguyên - môi trường được thể hiện như: số lượng các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo, bảo tồn và được quy hoạch; mức độ đóng góp cho hoạt động phát triển tài nguyên, bảo vệ môi trường, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
2.1.3.3. Tiêu chí đánh giá về khả năng liên kết vùng, hợp tác khu vực và quốc tế về phát triển kinh tế du lịch
- Việc liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch ở vùng KTTĐ được thực hiện trong hoạt động như: đào tạo nguồn nhân lực du lịch, xây dựng quy hoạch du lịch, xúc tiến, quảng bá du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch…
- Liên kết và hợp tác phát triển du lịch trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng, mang lại hiệu quả và cùng có lợi giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành
trên cùng một địa phương, giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng lãnh thổ khác trong cả nước cũng như trong khu vực và quốc tế.
- Liên kết và hợp tác phát triển du lịch phải bổ sung khắc phục những hạn chế, phát huy những thế mạnh về du lịch của mỗi địa phương trong vùng, mỗi vùng cũng như mỗi quốc gia.
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ DU LỊCH Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.2.1. Vai trò của kinh tế du lịch ở vùng kinh tế trọng điểm đối với hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là quá trình tham gia của chủ thể vào những vấn đề chung, sự kiện chung của quốc tế với chính kiến, quan điểm riêng của mỗi chủ thể nhằm mục đích tranh thủ, tạo ra những cơ hội thuận lợi để phát triển, đem lại lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội… cho các bên tham gia.
Trong bối cảnh HNQT, du lịch trở thành một trong những kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả nhất; góp phần vào tiến trình HNQT và thực hiện đường lối đối ngoại của các quốc gia. Vai trò của KTDL trong quá trình HNQT thể hiện trên những khía cạnh sau:
2.2.1.1. Kinh tế du lịch góp phần thúc đẩy phân công lao động, hợp tác khu vực và quốc tế
Phân công lao động (PCLĐ) giữa các quốc gia trên phạm vi thế giới được hình thành khi sự PCLĐ xã hội vượt ra ngoài biên giới một quốc gia do sự phát triển của LLSX. PCLĐ quốc tế ngày càng phát triển và bao trùm toàn bộ nền kinh tế thế giới, nó ngày càng phát triển khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Điều kiện để PCLĐ quốc tế bao gồm: Một là, sự khác biệt giữa các quốc gia về điều kiện tự nhiên, do đó các quốc gia phải dựa vào ưu thế về tài nguyên thiên nhiên để chuyên môn hóa sản xuất, phát huy lợi thế so sánh và điều kiện địa lý của mình; Hai là, sự khác biệt giữa các quốc gia về trình độ phát triển của LLSX, trình độ phát triển KHCN, truyền
thống sản xuất; Ba là, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của mỗi quốc gia.
Đối với hoạt động KTDL, sự PCLĐ và hợp tác quốc tế ngày càng trở nên rõ nét hơn. KTDL là ngành sản xuất ra sản phẩm du lịch để cung ứng ra thị trường với sự kết hợp bởi một chuỗi các dịch vụ khác nhau. Để có được sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thì đòi hỏi phải có sự PCLĐ, chuyên môn hóa rất cao trong các công đoạn, phân khúc sản phẩm. Các tuyến du lịch giữa các quốc gia được gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu du lịch nhiều nước trong một chuyến hành trình của du khách, đòi hỏi sản phẩm và dịch vụ du lịch phải được quốc tế hóa cao, là cầu nối gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Xu hướng tất yếu hiện nay đòi hỏi các quốc gia phải liên kết trong phát triển nói chung và KTDL nói riêng. Qua đó thấy rằng KTDL góp phần vào thúc đẩy PCLĐ, hợp tác khu vực và quốc tế.
2.2.1.2. Kinh tế du lịch góp phần tăng cường sự giao lưu, hội nhập của vùng đối với khu vực và quốc tế
Kinh tế du lịch là ngành kinh tế sản xuất ra sản phẩm du lịch để cung ứng ra thị trường với sự kết hợp bởi một chuỗi các dịch vụ khác nhau. Bản thân các quốc gia, khu vực không thể tự mình đáp ứng mọi yêu cầu cho sự phát triển của KTDL. Dưới sự tác động qua lại của nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, môi trường sống, đối tượng khách du lịch… khiến cho KTDL luôn có sự vận động phát triển không ngừng. Chính những tư tưởng chấp nhận những cái cũ, không chịu đổi mới, bó buộc trong những mô típ quen thuộc của du lịch địa phương đã tạo ra sự thất bại của KTDL nói chung và KTDL vùng KTTĐ nói riêng. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với phát triển KTDL ở vùng KTTĐ là phải mở rộng liên kết, hợp tác với các vùng, các khu vực và các nước trên thế giới.
Đối với những đơn vị cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch sở tại, để có thể đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khác nhau thì yêu cầu các đơn vị